Thứ Hai, 6 tháng 1, 2014

Chí Linh phong vật chí 19

                                  XÁC KHÊ HẦU

Dịch âm:
Xác Khê tích hữu Phạm Công Ưởng
Truyền đạo thần đồng chung khí sảng
Ngưu tế khai tâm mẫu khả kỳ
Long đầu triệu ứng sứ tiên nhượng
Vọng long dương thế biết vô hà
Đạo tại văn khê phong hữu hưởng
Trưởng lý tam ca chúng khẩu truyền
Hiền từ cửu xã cao sơn ngưỡng.
Dịch nghĩa:
Xã Xác Khê ngày xưa có ông họ Phạm tên Ưởng
Tục truyền là thần đồng do khí thiêng chung đúc nên
Giết bò để vỡ lòng cho con bà mẹ là người kỳ lạ
Mộng triệu thấy ông ở đầu bảng rồng, thày học ông phải nhường
                                                                                        ngay trước
Danh vọng vang lừng lúc bấy giờ như ngọc không vết
Đạo mạch trong văn khế như gió có tiếng vang
Miệng đời truyền ba câu ca dặm đường dài
Chín xã lập miếu thờ tôn làm tiên hiền.
Tạm dịch thơ:
Ông Phạm Ưởng xã Xác Khê
Thần đồng nổi tiếng ngay thì còn thơ
Vỡ lòng bà mẹ giết bò
Trạng nguyên, thày mộng biết thua đành nhường
Văn khế nức tiếng từ chương
Danh thơm như ngọc không vương vết mờ
Tiên hiền chín xã đều thờ
Dặm dài ba khúc dân ca còn truyền.
Xác Khê hầu, người xã xác Khê, tổng An Điền, họ Phạm tên Duy Ưởng, cha mất sớm, ở với mẹ. Năm ông 8-9 tuổi, có ông Nguyễn Khắc Kính, người xã Thanh Đôi, huyện Siêu Loại, xứ Kinh Bắc, sau làm quan đến chức thượng thư, nhưng lúc ấy chưa đỗ đạt gì, mở trường dạy học ngay trong làng. Một hôm bà mẹ ông đến hỏi thày đồ rằng:
-Tôi muốn cho cháu theo học, không biết lễ vật phải như thế nào?
Nguyễn Công cười đáp:
-Nhiều ít tùy lòng chẳng có lệ nào cả.
Bà nói:
-Giết bò có được không? Nhà tôi có một con bò, nghe nói việc vào học là việc lớn, nên định giết bò để làm lễ.
Thày đáp:
-Như thế thì quá hậu
Nói rồi thày chọn ngày cho vào học. Quả nhiên bà mẹ giết bò làm lễ, xin thày đặt tên cho con. Bà nói;
Cháu họ Phạm, tên tục là Ưởng, gia đình bố cháu thường lấy ba chữ đặt tên,chữ đệm là Duy, xin thày theo tục đó mà đặt tên cho cháu.
Trước đó Nguyễn Công nắm mộng, thấy tên đứng đầu bảng là Phạm Duy Ưởng, còn tên mình thì đứng thứ hai. Tỉnh giấc dậy rồi, ồn còn nhớ rõ. Nghĩ đến các bạn du học cùng thời với mình, ông không thấy có ai đội tên ấy. Xem rộng cả họ tên….(1) chẳng thấy có ai, bèn chu du thiên hạ, tìm các bậc có học vấn dò hỏi. Cuối cùng cũng chẳng biết gì hơn. Bấy giờ được nghe lời bà mẹ kia nói, ông rất lấy làm kinh dị, bụng bảo dạ rằng: “Mình cùng với thằng bé này sẽ đậu cùng một khoa đây, nhưng chưa biết đến bao giờ mới đậu”
Ông dậy Phạm Ưởng học thấy tư chất thông minh khác thường, ngày ngày tiến bộ, vui mừng nói rằng: “Cứ như thế này, mình thi đậu cũng chẳng lâu đâu”. Quả nhiên khoa thi hội Nhâm Tuất, năm Thuần Phúc thứ nhất triều Mạc, thày trò cùng bảng. Hồi ấy Nguyễn Công tuy tuổi già, nhưng học lực không kém gì. Lúc còn trẻ vẫn có ý muốn đậu Trạng nguyên. Ngày vào ông bảo trò rằng: “Anh nên nhường ngôi trạng nguyên cho ta”. Phạm Ưởng vâng lời thong thả nói:
-Trong những người cùng đậu khoa này, học rộng không ai bằng thày, nhớ nhiều không ai bằng đệ tử. Nếu đầu đề có gì hiểm hóc, mong thày vì đệ tử bảo ban cho. Để đền đáp đại đức tác thànhngôi trạng nguyên đệ tử xin nhường thày.
Nguyễn Công nói:
-Anh nói vậy chính hợp ý ta
Khi đầu đề đã viết xong rồi, Nguyễn Công bị đau bụng liên mien đến giữa trưa, không sao làm nổi bài được nữa. Chợt nghĩ đến giấc mộng ngày trước, ông ngửa mặt lên trời khấn rằng
-Ngôi trạng nguyên không dám cùng Phạm Ưởng tranh giành nữa, xin thần linh giúp đỡ, chỉ mong sao viết xong quyển là đủ rồi.
Nguyễn Công vừa khấn xong là khỏi đau bụng, bấy giờ mới cầm bút hành văn được. Do đó Phạm Ưởng đậu trạng nguyên. Còn mình thì đậu bảng nhãn. Thế mới biết người ta được vinh hiển là do định số. Triệu chứng đã rành rành như vậy. Huống chi Phạm Trạng Nguyên độ lượng rộng rãi, thì phúc đức càng to lớn đâu phải là việc ngẫu nhiên.
Tục truyền rằng: Phạm Ưởng còn là học trò của ông Trần Xuân Bảo, người xã Quan Sơn huyện Thanh Lâm, thấy trò mong đỗ đại khoa, Trần Công để cho ngôi đất, nói rằng năm sau sẽ phát và sau khi điểm huyệt lập hướng rồi ông trở về nhà.
Phạm Ưởng nhờ một thày Tầu xem lại ngôi đất, đổi khác hướng đi. Trần Công không biết, thường khoe nghệ thuật của mình hiệu nghiệm như thần. Đất đã thiên rồi, ông tuyên bố ngay tại triều rằng trạng nguyên khoa này là học trò của mình. Đến kỳ thi hội, Phạm Ưởng không đậu. Trần Công ra ngoài đi chơi, nghe thấy chuyện, bèn đến xem lại chỗ để ngôi mộ, thấy lời đồn không sai, lấy làm lạ, hỏi Phạm Ưởng thì Phạm Ưởng thú thật cả sự việc. Trần Công bèn ngồi trên huyệt sai Phạm Ưởng theo hướng đặt mộ, đâu là đầu, đâu là chân, rồi thiên mộ lại. Ông nói:
-Cứ thiên hướng đúng như vậy đi, nếu không nghiệm ta sẽ đốt hết sách vở, sau khỏi làm cho người khác lầm.
Quả nhiên năm ấy Phạm Ưởng đậu trạng nguyên. Thuật địa lý của Trần Công thật là kỳ vậy.
Xét địa thế thì mạch tốn lại hướng tốn ứng, chín khúc quay chầu, huyệt chiếm cú khe nhỏ, trước khe có một đồng cỏ đứng ở hướng ngọ,,cách huyệt rất gần. Trần Công lập hướng ấy, đỗ đạt là đúng. Người thày Tầu lập hướng khác, tuy hợp với mắt người thường nhưng rút cục đất không phát. Thế đủ biệt địa lý cũng là một thuật khó.
Về đất này xưa có chép rằng; “Xác Khê sơn đông nhiễu, khoa đệ tự hữu kỳ” nghĩa là Xác Khê có núi học về phía đông, việc đỗ đạt có thể hạn được. Lời này cũng ứng với việc đó.
Tục lại truyền rằng: có người Tầu khi giúp Phạm Ưởng di mộđể quyết thi đậu rồi, đã trồng một cây tre, hẹn ông đậu thế nào cũng trở lại, cứ lấy tre ấy làm lời dấu tích mà tính công, nhưng mối khi măng mọc, ông lại bỏ đi không để thành cây. Về sau, khi ông thi đậu, người Tầu trở lại, ông không hỏi han gì đến, người đó bỏ đi, sai một người khác lại làm phản động: cắm cái đinh ba chạc xuống long mạch, khai một ao con ở tiên đường. Vì thế ông không có con và đất cũng không phát nữa.
Tục truyền rằng: khi ông còn it tuổi, có người ra cho ông câu đối này:
Trượng phu chí khí tương kỳ, vật dĩ tiểu hiếm giới
Ý nghĩa là: chí khí đấng trượng phu, chớ để ý đến cái hiếm nhỏ nhặt
Ông đối rằng:
Đế vương thi vị khí tương, tất hữu đại quá ư nhân
Nghĩa là: khí tượng bậc đế vương tất có cái to lớn hơn người.
Khoa danh sự nghiệp của ông xem đó đủ thấy một cách khái quát.
Sau khi ông thi đậu, trong nước có nhiều loạn lạc. Vâng mệnh đi đón sứ qua cửa ải, một mình cầm quân đi đánh giặc, năm này qua năm khác, làm quan đến chức thượng thư bộ lại, được phong tước Xác Khê hầu. Về văn chương chỉ còn thấy có 12 bài thơ. Ngoài ra không còn gì cả.
Trước đình thờ ông có một cái khe nhỏ, tên gọi là Văn Khê, bốn mùa nước trong, chảy vào sông Lục Đầu. Tục truyền ông có công đắp con đường, từ Xác Khê qua huyện Thanh Lâm, đến bến đò Hoàng Kênh để tiện lối đi lại. Đường này dài tục gọi là Dăm Tiều, ai đi qua lại cũng lấy làm ngại, cho nên đến nay vẫn còn câu ca dao:” Thứ nhất thì dặm bà Hoa / Thứ nhì Dặm Liệt, thưa ba Dặm Tiều”. Dặm Bà Hoa ở huyện An Dương phủ Kinh Môn, Dặm Liệt ở huyện Phủ Cừ phủ Hạ Hồng.
Sauk hi ông mất, chín xã trong tổng ông lập đền thờ tại xã ông, xuân thu nhị kỳ cúng lễ. Đến nay đều hãy còn.
Về xã này, trong triều Lê có ông Nguyễn Tự Phụ, năm Hồng Đức thứ 6, Khoa Ất Mùi đậu đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, làm quan đến chức Giám sát ngự sử. Đáng tiếc là ông khoa danh hiển đạt mà văn chương sự nghiệp thất truyền. Bây giờ còn lại chỉ có khoa giáp quan chức là thế mà thôi. Cho hay là thế cũng không hổ với tài với chức. Vậy sự tích ông không thể kê cứu gì được.

2/1/2014
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...