38. Nguyễn
Khoa Điềm
Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Cất lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a Kai ơi
Ngủ ngon a Kai à...
Xuân Sách
Uống rượu với nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm
TP - Tôi với nhà thơ Nguyễn Hoa phải vào Huế gấp để dự
tang lễ thân phụ nhà văn Võ Thị Xuân Hà. Nhận tin khẩn, lại vào ngày thứ bảy,
lái xe cơ quan có việc về quê, phương án tối ưu là đi tàu tốc hành Thống Nhất.
Chúng tôi quyết định ra ga Hàng Cỏ, 19 giờ 30 lên tàu.
Theo dự
tính, chúng tôi sẽ ở Huế dăm ngày, viếng tang lễ, rồi đi thăm một vài nhà văn
cao tuổi, đi vãng cảnh, đi thâm nhập thực tế vài nơi...
Trù tính mọi
chuyện rồi, mãi gần sáng, khi tàu sắp đến Đồng Hới, tôi mới ngủ thiếp đi một
lúc .
Bỗng nhà thơ
Nguyễn Hoa ngồi bật dậy, đập chân tôi:
- Tôi nghĩ
lại rồi, bác ạ… - Ông Hoa hơn tôi một tuổi, nhưng hay gọi tôi bằng bác. Nói
chung ông gọi tất tật mọi người bằng bác (không viết hoa), để tỏ sự kính trọng
như bản tính vốn có ở ông.
- Chắc đêm
qua bác vừa sáng tác được bài thơ mới? - Tôi như kẻ sẵn sàng chịu chuyện
để khích lệ nhà thơ. Công tác với Nguyễn Hoa không ít năm, nhưng mãi gần đây
tôi mới biết tên cúng cơm của ông là Nguyễn Hoa Kỳ.
Cái tên làm
ông khổ một thời. Địa phương không cho ông đi đại học. Thân Mỹ, sùng bái Mỹ đến
mức lộ liễu thế kia đấy. Ở nhà làm ruộng, chăn dê, hoặc cùng lắm là đi chiến
trường, mấy ông cán bộ xã quyết thế. Nguyễn Hoa Kỳ xung phong đi bộ đội.
Khoác áo
lính, nhưng vẫn sợ tổ chức dị nghị, không tin dùng, bèn vứt béng chữ Kỳ đi, từ
đó tên mềm như con gái. Vậy mà khối người cứ kháo nhau rằng ông nhà thơ
phụ trách công tác tổ chức này khô như ngói, chỉ làm được thơ chính trị chứ
không viết được thơ tình.
Sai bét. Qua
đợt đi với ông lên Sa Pa vừa rồi, thấy nhận xét của thiên hạ sai bét. Thơ tình
của Nguyễn Hoa khối anh còn chạy theo mệt. Ví như câu thơ này, tôi dám
chắc ... đến Xuân Diệu sống lại cũng phải ngả mũ: “Em là muối ướp nỗi đau tươi
mãi”.
- Kể ở chơi
Huế vài ba ngày cũng thích thật – Nguyễn Hoa vào thẳng câu chuyện - Nhưng tôi
với bác, hai anh già, mỗi anh lếch thếch một cái cặp, như những tên hành khất,
xe cộ chẳng có, đi taxi thì tốn tiền, ai thanh toán? Đi xe ôm thì bệ rạc. Rồi
ăn nghỉ khách sạn thì tốn kém. Đến nhà bạn bè thì phiền hà...
Tôi vừa hỏi
đồng chí trưởng tàu, con tàu sang trọng này mới khánh thành mùa hè vừa rồi để
chở khách đi du lịch Huế. Đây là một đôi tàu chỉ chạy tuyến Hà Nội- Huế và
ngược lại. Hôm nay ta đi ít khách, hai anh em làm chủ cả một toa thênh thang
thế này là vì đã hết mùa du lịch. Tàu sẽ dừng ở Huế hơn bốn tiếng rồi lại quay
đầu ra Hà Nội bác ạ.
- Tức là ta
cũng quay đầu?- Tôi sững người vì cái quyết định đột ngột của ông trưởng đoàn.
Thôi rồi, còn gì vui thú trên cõi đời này ? Tôi chán chường lắc đầu – Bác
nghĩ cũng phải. Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách.
Vậy là anh
em ta có bốn giờ ở Huế. Cũng xênh xang chán. Thế thì phải điện thoại ngay cho
các bác Nguyễn Khắc Phê và Nguyễn Quang Hà, nhờ hai bác mua sẵn hương hoa...
- Tôi điện
cho cả hai anh rồi- Cái bướu quả ổi trên trán Nguyễn Hoa gồ lên, đầy quyết đoán
- Nhờ Nguyễn Quang Hà đặt vòng hoa rồi. Anh Hà đợi chúng ta ở nhà, rồi cùng đi
luôn.
* * *
Quả nhiên,
nhà văn Nguyễn Quang Hà đã đợi sẵn chúng tôi trước con phố thông ra bờ sông An
Cựu. Vừa gặp nhau, anh Hà đã khoát tay, bảo taxi đi ngay.
- Tớ vừa gọi
điện cho Nguyễn Khoa Điềm, nói các cậu vào, Điềm mừng lắm. Hắn hẹn đợi cánh ta
ở cổng nhà để cùng đi. Vòng hoa tớ đã đặt sẵn ở Đập Đá, xe đến đó là có
liền.
Tôi nhìn Hà
rồi liếc sang anh taxi.
- Bác nói
thế mà không sợ phạm thượng à? Chẳng gì nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng từng là
Ủy viên Bộ Chính trị, quyền uy dưới vài người nhưng trên hàng triệu người.
- Chúng tớ
vẫn gọi nhau là mày tao mà - Ông Hà cười lớn và nói oang oang, như vừa tu rượu
Làng Vân quê ông - Mình còn hơn tuổi Điềm. Từ hồi trên chiến khu A Lưới, những
năm 1968, 1970 cho đến sau giải phóng, hai thằng vẫn hoạt động cùng nhau.
Mà cả mấy
thằng Trần Vàng Sao, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Đắc Xuân nữa.
Mày tao suốt, quen rồi. Lên chức cao thì tránh gọi nhau ở chỗ công sở, chỗ đông
người, còn gặp nhau bên quán rượu, ngoài đường phố là mi tau tuốt.
Chúng tớ còn
cưới vợ cho Điềm cơ mà. Anh em văn nghệ ở Huế gọi nhau không khách sáo như
ngoài Bắc... Kia rồi, Điềm đang đứng chờ bọn mình.
Tôi nhận ra
tác giả “Mặt đường khát vọng”, nhà thơ xứ Huế, áo trắng bỏ trong quần tím than,
trông trẻ trung thư thái, chẳng có vẻ gì quan dạng, đang đứng đợi bên đường
cùng với mấy anh em văn sỹ: Ngô Minh, Trần Vàng Sao, Mai Văn Hoan...
Hoá ra nhà
ông chỉ cách nhà Võ Thị Xuân Hà chừng ba chục số nhà, cũng bên số chẵn, đường
Thuận An cũ, nay là phố Nguyễn Sinh Cung.
Gia đình nhà
văn Võ Thị Xuân Hà và mọi người xúc động thực sự khi thấy đoàn của Hội nhà văn
Việt Nam, đông tới chục người, có cả nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Khoa
Điềm đi sau vòng hoa viếng.
Chúng tôi
thắp hương tưởng nhớ người đã khuất, thân phụ nhà văn Võ Thị Xuân Hà, cựu thiếu
tá Võ Công Đẩu, hơn 60 tuổi Đảng, nguyên Phó Chủ nhiệm thông tin Đoàn 559,
nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Vỹ Dạ những ngày đầu giải phóng...
Tôi đã hơn
một lần nghe Hà kể về người cha thân yêu và gia tộc họ Võ của mình. Ông nội Hà,
cụ Võ Công Đồng, từng là chủ tiệm vàng giàu nhất nhì Huế.
Những người
Huế từ thời vua Bảo Đại đến thời chính quyền Sài Gòn, ít ai không biết đến các
tiệm vàng Đức Nguyên, Tài Nguyên ở khu chợ Đông Ba, ở đường Thuận An, ở
dốc An Cựu.
Ngay ở khu
nhà cổ đường Thuận An này, nơi đặt xưởng kim hoàn, có thời kỳ người ta đua nhau
đến mua đất vườn nhà cụ, mua từng xe cải tiến, chở từng thúng đất mang ra sông
đãi lấy vàng cám và hạt xoàn, rồi chở đất khác về lấp lại...
Giàu có đến
mức ấy, vậy mà sau Cách mạng tháng Tám, anh con trai cả Võ Công Đẩu của
cụ, chưa đầy hai mươi tuổi, đã dứt bỏ giàu sang, tình nguyện đi kháng chiến.
Là đảng viên
từ năm 1946, rồi cả gia đình, vợ và ba con gái đều là đảng viên, từng giữ trọng
trách Phó chủ nhiệm Thông tin đoàn 559, nhưng cho tới trước khi nghỉ hưu, năm
1980, ông Võ Công Đẩu mới đạt đến hàm thiếu tá.
Cái lý lịch
con tư sản chủ tiệm vàng chợ Đông Ba neo giữ ông suốt hai mươi năm không lên
nổi một bậc hàm quân đội. Ấy là chưa kể một lần, thời chống Pháp, do bị tố giác
là con tư sản chui vào hàng ngũ ta, ông đã bị bắt giam.
Người cứu
anh lính vệ quốc Võ Công Đẩu khỏi bị hành xử, chính là đồng chí Nguyễn Duy
Trinh, thủ trưởng cũ của anh, khi ấy đã là một cán bộ cao cấp của Chính phủ.
Gia đình ông
Võ Công Đẩu, cũng như hàng vạn gia đình phía nam vĩ tuyến 17, từng bị chia đôi
như Đất nước. Vợ chồng anh trai cả đi ra Bắc. Bố mẹ, anh chị em ở lại với Huế.
Ông em Võ
Công Luân cùng các em nối nghiệp cha gìn giữ và phát triển tiệm vàng Tài
Nguyên, Đức Nguyên, sinh sôi phát đạt ... Mậu Thân năm 1968, nghe tin cộng sản
từ A Sầu, A Lưới về giải phóng Huế, cả nhà sơ tán khỏi thành phố, nhiều người
chạy miết vào Đà Nẵng, riêng ông chủ Võ Công Đồng quyết ở lại Huế chờ con
trai Võ Công Đẩu.
Thế rồi một
viên đạn lạc đã giết ông chủ tiệm vàng nổi tiếng khi đang ngóng đợi người con
sau bao nhiêu năm xa cách trên đoạn đường trước nhà...
* * *
Chương trình
đến thăm tệ xá nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm hoàn toàn nằm ngoài dự kiến của chúng
tôi.
Chúng tôi
tản bộ cùng với nhà thơ xứ Huế về ngôi nhà cũ của ông, nơi nhà thơ Hàn Mặc Tử
từng có bài thơ nổi tiếng “ Đây thôn Vỹ Dạ”, nơi bây giờ Nguyễn Khoa Điềm cáo
quan về ẩn dật. Bỗng đâu, mấy câu vè cánh văn nghệ Hà thành thường kháo nhau,
chợt lởn vởn trong đầu: “Bộ Chính trị không ban Sáng tác/ Mất chức rồi
quan bác về đâu?...”
Qua chiếc
cổng lớn, chúng tôi lọt giữa một khuôn viên nhiều chuối và na xen dưới bóng tre
ngà và cây cổ thụ. Thì ra, hơn tất cả những quan chức cỡ lớn đương thời về hưu,
riêng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn có một chốn xưa để vui thú điền viên, hoành
tráng và thơ mộng đáng kinh ngạc.
Đó là một
ngôi nhà của tổ phụ rộng hơn ngàn mét vuông, nằm ngay thôn Vỹ Dạ xưa, gần dinh
thất của Tuy Lý Vương và nhiều đại quan, vương tôn công tử triều Nguyễn.
Nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm xăm xăm dẫn khách vào gian nhà chính. Đó là một ngôi nhà cổ
được cải tạo lại, mái ngói thâm nâu. Giữa nhà, là một ban thờ lớn, với đầy đủ
đồ tế tự của một ngôi nhà rường truyền thống xứ Huế.
Trên ban
thờ, giữa khói hương nghi ngút, tôi kinh ngạc nhận ra mấy hàng bài vị với những
ảnh thờ được phóng to, xếp theo thứ bậc. Chà chà, quả là liệt tổ liệt tông một
dòng họ nhiều đời, từ triều đại phong kiến đến giờ đều giữ những cương vị
đáng nể.
Tôi không
thể nhận biết giữa nghi ngút khói hương kia có ảnh quan nội tán Nguyễn Khoa
Đăng, ảnh cụ nghị viên dân biểu Nguyễn Khoa Tùng không, nhưng đoán chắc bức ảnh
người phụ nữ khuê các ở hàng trên kia là nữ sỹ Đạm Phương, bà nội nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm.
Riêng ảnh và
bài vị cụ Hải Triều Nguyễn Khoa Văn, nhà báo, nhà lý luận Macxit hàng đầu Việt
Nam, người từng gây cuộc tranh luận nổi tiếng “Nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ
thuật vị nhân sinh” với Hoài Thanh, Thiếu Sơn, Lưu Trọng Lư những năm
1935-1939, thì tôi không thể lẫn được.
- Ba mình đó
- Ông Điềm thân chinh đưa hương cho chúng tôi thắp, kính cẩn đứng đáp lễ, chỉ
bức ảnh, nói với chúng tôi. Rồi ông quay ngang, chỉ một bức ảnh khác, không đặt
trên ban thờ mà treo trên chiếc cột giáp gian bên -
Còn đây,
cũng ảnh ba mình, chụp trước tấm ảnh thờ kia nhiều năm, trông ông cụ rất trẻ.
Ba người trong ảnh, mình nhận được hai, còn vị bên trái ba mình, cho tới giờ
vẫn chưa tìm ra.
Bức ảnh bốn
người, chụp từ thời mười tám đôi mươi, nhưng người ở phía bên trái Hải Triều,
sáu mươi năm sau, vẫn là một ẩn số. Làm tới chức vụ như ông Nguyễn Khoa Điềm mà
tới giờ vẫn chưa tìm ra người bạn chụp chung ảnh với ba mình, cũng lạ.
Tôi nháy
Nguyễn Hoa, thắp hương xong rồi, mời bác Điềm đi ăn trưa. Nhưng ông Điềm lại
dẫn chúng tôi ra chiếc bàn đá đầu hồi nhà thờ, dưới bóng cây râm mát và bảo :
- Mấy khi
khách quý đến chơi, ta uống một chút gì chứ hỉ?
Nụ cười của
nhà thơ có sức lưu giữ khách. Nhiều người bảo rằng ông Nguyễn Khoa Điềm rất ít
khi cười. Trong các hội nghị, trên Tivi, ông thường trực một gương mặt ít biểu
cảm. Nhưng hôm nay, tại căn nhà nơi cố hương, ông hoàn toàn khác. Từ ngày về
hưu tôi thấy ông trẻ và khoẻ ra nhiều. Hình như trút bỏ được mũ mãng cân đai,
ông đang thực sống là mình.
- Có rượu
ngon thì mang đãi khách quí Hà Nội đi – Cả Ngô Minh và Nguyễn Quang Hà đều gợi
ý.
- Có chớ.
Rượu thượng hạng đây.
Nhà thơ đi
xuống dãy nhà lầu phía sau, nơi có không khí cỗ bàn, rồi mang ra một chai
Chivas regal 12 vừa bóc tem. Đích thân nhà thơ rót rượu ra những chiếc ly thủy
tinh cao chân.
- Rượu ngon
phải có cái chi nhắm chứ hề – Tôi bỗng xúc động với chất giọng Huế và động tác
của nhà thơ ngoái nhìn vào dãy nhà ngang, nơi thấp thoáng bóng xiêm áo
phụ nữ.
Kia rồi, mấy
người phụ nữ cùng tíu tít chạy ra. Chúng tôi nhận ra chị Lợi, phu nhân nhà thơ,
trẻ trung chẳng kém gì hai cô con gái . Họ mang ra ba bốn loại giò, giò
lụa, giò bò, giò quế...
- Vợ tôi với
các cháu chắc cũng cùng đi chuyến tàu với ông Hoa ông Tường đó. Đây là đặc sản
Hà Nội, mẹ con vừa mang vào...
Không khí
bỗng vui hẳn lên khi nhà thơ Trần Vàng Sao dắt xe đạp lạch xạch đến. Tôi không
ngờ ông già cổ kính chừng bẩy chục tuổi này lại là tác giả thi phẩm nổi tiếng “
Bài thơ của một người yêu nước mình” viết cách đây hơn bốn mươi năm.
- Rượu thằng
Điềm ngon quá hè - Trần Vàng Sao đưa ly rượu vàng màu hổ phách lên ngắm nghía
một cách thèm khát, như tiếc rẻ không nỡ uống, rồi nhấp môi khà một tiếng sung
sướng. Đúng như Nguyễn Quang Hà nói, đám bạn bè văn chương chiến khu A Lưới một
thuở, cứ ngồi với nhau là mi tau như không thể nào khác.
Có lẽ trong
những ngày về hưu cô đơn dằng dặc mấy năm qua, Trần Vàng Sao là người láng
giềng gần gũi và lui tới thăm nom Nguyễn Khoa Điềm vô tư nhất. Với ông, không
có ranh giới chức tước, càng không có sang hèn...
Trong không
khí anh em thân tình, lại có Diệu An, con gái nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, phóng
viên báo Nhân Dân, chụp cho cuộc rượu một kiểu ảnh kỷ niệm, tôi nảy sinh ý định
muốn làm một phép thử đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Năm ngoái,
cũng thời gian này, khi cuốn tiểu thuyết “Thời của Thánh Thần” của tôi vừa in
xong đã gặp cơn sóng gió, một buổi trưa tôi bỗng nhận được điện thoại của nhà
thơ Dương Thuấn:
“Làm
gì có chuyện thu hồi, cấm phát hành sách của anh. Anh Nguyễn Khoa Điềm vừa gọi
điện cho em. Anh Điềm đã mua đọc và thấy không có gì phải cấm kị. Anh Điềm bảo
đã gọi điện hỏi ông Bộ trưởng. Có ai xử lý gì đâu?”.
Nhà thơ dân
tộc Tày Dương Thuấn vốn là em út, rất thân với ông Nguyễn Khoa Điềm. Chẳng lẽ
Dương Thuấn chỉ muốn kiếm câu chuyện làm quà? Có thế chứ. Tầm cỡ như ông Điềm
là phải thế.
Nhưng rồi
tôi lại thoáng nghi ngờ, khi nhớ lại mấy vụ sách của Nguyễn Khắc Phục, Bùi Ngọc
Tấn, Nguyễn Khải... dưới thời ông Điềm “trị vì”. Nếu như ông Điềm tiếp tục giữ
cương vị cũ một khoá nữa, ông có dám nói như thế không?
Tôi mang câu
chuyện nói lại với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ông im lặng giây lâu. Tôi chợt ân
hận vì đã đẩy ông vào tình thế khó xử. Người xưa nói “Ở bầu thì tròn, ở ống thì
dài”. Nghỉ hưu rồi, ra khỏi bầu rồi, nhưng chắc ông vẫn còn chưa đủ thời gian
để kịp dài với ống ?
- Có, mình
đã đọc. Và có điện cho Dương Thuấn...
Câu nói của
nhà thơ, khiến tôi kính trọng ông và thấy cuộc rượu này có ý nghĩa. Tôi hiểu,
vì sao mới đây ông lại viết: “Nói với nhà văn quá cố”, một bài thơ đầy tâm
trạng:
“... Tôi nói
thầm/ Giá như các anh sống lại/ Ngồi vào bàn viết bên tôi/ Chắc các anh sẽ nheo
mắt cười/ Tha thứ cho chúng tôi đã sống dai đến vậy/ Xả rác ở các nhà xuất bản
nhiều đến vậy/ Mà được gì cho cuộc sống hôm nay.../ Còn tôi/ Trong cơn mưa lạnh
cuối năm như vãi cát vào mặt/ Nhớ đến những thợ cày lực lưỡng đã đi xa/ Cúi
xuống tờ giấy trắng trơ như cánh đồng sau vụ gặt/ Lòng quặn đau rằng đất không
thể ở không/ Giấy phải làm ra chữ...”.
Nhà văn quá
cố mà Nguyễn Khoa Điềm muốn nói chuyện là ai? Chắc không phải là nhà thơ em út
mà ông từng có thơ đề tặng “Bạn giờ đóng gạch nơi đâu?”. Chí ít cũng phải tầm
cỡ như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, hay xa nữa là Nam Cao, Vũ Trọng Phụng...,
những thợ cày lực lưỡng?
* * *
Tôi nhìn
đồng hồ. Chỉ còn hai tiếng nữa chuyến tàu Huế - Hà Nội sẽ khởi hành.
Nguyễn Hoa
hiểu ý, đứng dậy, vò mãi hai bàn tay.
- Báo cáo
anh Điềm, chúng tôi đã mua vé tàu...Trước khi chia tay, hai anh em có nhã ý gặp
gỡ các nhà văn xứ Huế trưa nay. Xin mời anh tới nhà nổi Sông Hương ...
- Tiếc quá
hề. Được ăn cơm với các anh thì vui quá hề. Nhưng trưa nay nhà mình có khách.
Các anh thấy đó. Vợ con mình đang chuẩn bị...
Tôi giật
mình. Quả là chúng tôi quá vô tâm. Lúc lên thắp hương nhà thờ, tôi đã ngờ
ngợ. Hình như hôm nay là ngày giỗ thân sinh nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Cụ Hải
Triều Nguyễn Khoa Đăng ốm và mất ở Thanh Hóa cũng vào tháng tám này, năm 1954.
Hoàng Minh Tường
Hoàng Minh Tường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét