52. Vũ Cao
(1922-2007)
Sớm nay nhấp một chén trà
Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi
Những người cùng làng với tôi
Muốn sang đèo trúc muộn rồi đừng sang.
Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi
Những người cùng làng với tôi
Muốn sang đèo trúc muộn rồi đừng sang.
Xuân
Sách
Chuyện tình bi tráng của
nguyên mẫu cô du kích trong bài “Núi Đôi”
11/09/2013 11:08 GMT+7
Bài thơ Núi
Đôi được nhà thơ Vũ Cao sáng tác từ một chuyện tình có thật, bối cảnh có thật.
Theo lời tác giả, trong bài thơ duy nhất chỉ có câu “Bảy năm về trước em mười
bảy/Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng” là chi tiết hư cấu.
Người 17
tuổi đã trẻ nhất làng?
Nhà thơ Vũ
Cao từng nói, nếu không có chất liệu cuộc sống hàng ngày thì ông không viết
được. Ông kể rằng bài thơ được ông viết vào một ngày cuối năm 1956. Hồi đó ông
về công tác ở sư đoàn 312, đóng quân ở huyện Sóc Sơn (Hà Nội), cạnh đó có ngọn
núi Đôi.
Một hôm,
theo mấy người dân đi chợ, ông nghe họ kể chuyện tình của một cô gái du kích
trong làng yêu một anh trai làng, rồi anh đi bộ đội. Khi anh trở về thì cô gái
đã hy sinh.
Vũ Cao liền
tìm đến thăm mộ người nữ liệt sỹ đó ở xóm Chùa, thôn Xuân Đoài (còn gọi là Xuân
Dục - Đoài Đông), thuộc xã Phù Linh (còn gọi là Lạc Long). Đến tận nơi và nghe
người dân kể lại câu chuyện tình giữa anh bộ đội và cô du kích, cảm hứng xuất
hiện khiến ông đã chấp bút viết ra bài thơ Núi Đôi...
Cả tên làng,
tên chợ, tên người và quang cảnh đều hoàn toàn có thật. Mộ cô gái hiện vẫn còn.
Chỉ có anh bộ đội là người yêu của cô du kích thì lúc ấy Vũ Cao không gặp được,
không rõ còn sống hay đã mất.
Về lý do tại
sao ngay trong hai câu thơ đầu, ông lại cho rằng đôi nam nữ, trong đó cô gái 17
tuổi và chàng trai đôi mươi là “trẻ nhất làng”?. Vũ Cao sau này nói rằng, ngay
chính ông cũng... không hiểu vì sao ông lại viết như vậy.
Ông kể: “Quả
thật hồi đó trong làng còn có cả trẻ nhỏ và thanh thiếu niên cùng trang lứa với
họ. Có lẽ tôi đã quá cảm động trước chuyện tình đẹp như mơ và cũng đầy tình
tiết bi kịch của đôi lứa ấy mà “thậm xưng” lên như vậy.
Tuy nhiên,
nói trẻ nhất làng thì cũng có khía cạnh không ngoa. Người ta tiếc cho cuộc tình
không thành ở lứa tuổi 17, lứa tuổi nhiều sức sống nhất, yêu tha thiết nhất,
thế mà giặc Pháp xâm chiếm quê hương, giết cô du kích”.
Sự đồng cảm
lạ kỳ giữa nhà thơ – hình mẫu
Hai ngọn núi
Đôi bây giờ vẫn còn, người dân ở khu vực xã Phù Linh đều biết câu chuyện trong
bài thơ cùng tên ngọn núi, hỏi ai cũng đều có thể nhận được câu trả lời: “Cô ấy
chính là người làng này”.
Nhân vật nữ trong bài thơ chính là liệt sỹ Trần Thị
Bắc, con gái đầu trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Lớn lên trong
thời kỳ giặc Pháp xâm lược, năm 15 tuổi Bắc đã tham gia các hoạt động đoàn thể.
17 tuổi cô vào đội du kích với nhiệm vụ làm giao thông liên lạc, tiếp tế cho
đội du kích rồi được giao cả ba nhiệm vụ: quân báo, cứu thương và binh vận.
Ngày
21/3/1954, dẫn một đoàn cán bộ đi công tác, khi trở về núi Đôi thì Bắc gặp ổ
phục kích của địch. Cô giao liên dù bị địch bịt miệng nhưng vẫn kịp thời la lớn
để cảnh báo những người trong đoàn cùng đi phía sau, giúp các cán bộ chạy
thoát.
Tức tối,
địch tra hỏi nhưng không khai thác được thông tin gì từ cô du kích gan dạ này.
Giặc Pháp xử bắn Bắc ngay tại chỗ. Khi đồng đội tìm đến nơi thì Bắc đã tắt thở.
Đồng đội đắp mộ cho cô ở khu vực cầu Cốn, Vệ Sơn, xã Tân Minh.
Người ta
cũng xác định được nhân vật “Anh đi bộ đội sao trên mũ" ấy cũng là một
người có thật: ông Trịnh Khanh, người cùng xã Phù Linh. Theo lời ông Khanh kể
lại, ông và cô Bắc quen nhau trong thời gian Bắc đang học y tá, và đơn vị của
ông đóng quân gần đó. Là đồng hương nên có nhiều điều quý mến nhau, giữa đôi
trai gái này đã hẹn ước với nhau trước khi cô Bắc học xong khoá y tá rồi quay
về Phù Linh.
Đầu năm
1953, ông Khanh và cô Bắc gặp lại nhau và hai người quyết định tổ chức đám cưới
ngay tại đơn vị của chú rể. Đám cưới tổ chức đơn sơ, đại diện họ nhà trai là
đồng đội cùng đơn vị, đại diện họ nhà gái là mẹ của Bắc.
Vợ chồng
sống với nhau được hai ngày thì chia tay, ông Khanh theo đơn vị chuyển quân đến
địa điểm mới, chị Bắc trở về quê nhà Phù Linh. “Tôi không ngờ đó là cuộc chia
ly vĩnh viễn", ông Khanh nhớ lại.
Ba tháng sau
ngày cưới, ông Khanh nhận được tin vợ mình đã hi sinh. Đau đớn nhưng không biết
làm sao, ông tiếp tục theo đơn vị bước vào những trận đánh mới.
Khi Hiệp
định Genève được ký kết, một buổi chiều cuối năm 1954, người ta nhìn thấy một
anh bộ đội vai đeo ba lô bước về, nhưng không vào làng ngay mà ngồi thẫn thờ
bên ngôi mộ chi Bắc ven gò Cầu Cốn. Ông Khanh nghẹn ngào “Anh ngước nhìn lên
hai dốc núi/ Hàng cây, bờ cỏ, con đường quen/ Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói/
Núi vẫn đôi mà anh mất em”. “Không hiểu vì sao nhà thơ Vũ Cao lại có thể đồng cảm,
hiểu tâm trạng của người trong cuộc đến như thế”, ông Khanh nói.
Năm 1975,
sau khi đất nước thống nhất, ông Khanh đã tới tìm gặp nhà thơ Vũ Cao, nhà thơ
lúc đó mới bàng hoàng: "Thế Bắc có chồng rồi à?".
Theo nhà thơ
Vũ Cao, khi mới bắt gặp câu chuyện, ông đã dự định sẽ viết một truyện ngắn về
đề tài này chứ không phải là một bài thơ. “Không hiểu vì sao, sau khi đi thực
tế, tứ thơ dâng lên và bài thơ ra đời”, ông kể lại.
Hàng chục
năm sau khi bài thơ ra đời, nhiều bạn đọc còn nhầm tưởng bối cảnh và tình huống
trong bài thơ là của chính tác giả. Trong một lần nói chuyện với sinh viên
Trường cao đẳng Sư phạm Hà Nội, thậm chí còn có một cô sinh viên nước mắt lưng
tròng thầm thì với nhà thơ “Cháu thương bác quá”.
Một nhà thơ
từng nói, Vũ Cao là nhà thơ hiền hiếm có. Rằng Vũ Cao nổi tiếng sau kháng chiến
chống Pháp với bài thơ Núi Đôi bất tử, Vũ Cao lẽ ra có thể nhân thành công đó
để đưa thơ mình lên. Nhưng ông lại cứ như người bộ hành chậm rãi, nhường đường
cho người khác, cho các nhà thơ khác. Vũ Cao nói, ông làm thơ, mục đích cũng
chỉ là để phục vụ bộ đội mà thôi.
(Theo Xa lộ
pháp luật)
Nhà thơ Vũ Cao (1922 – 2007) quê
tại xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định (cùng quê với nhạc sĩ Văn Cao).Ông sinh trong một gia đình nho
học và hoạt động văn học khá sớm. Vũ Cao được tặng Giải thưởng Nhà nước về
Văn học nghệ thuật năm 2001.Ông có hai người em trai đều là
nhà văn: Vũ Ngọc Bình và Vũ Tú Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét