Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

Chí Linh phong vật chí (32)



             THƠ BÁT CỔ VÀ NGŨ NGÔN VỀ CHÍ LINH
                                           (Kỳ 1)

Dịch âm:
Bắc Giang tham trấn trùng quang hiển
Kiệt Đặc phong dư hồng dực kiện
Đinh Mão tân khoa văn vận khải
Cánh ư Tạ Xá khôi nguyên tuyển
Cổ kim nhân vật tổng tiêu kỳ
Bất phạp định tri nguyên phái viễn
Bát cổ thi đề vịnh vị chu
Ngũ ngôn thi hứng ca ngôn biến.
Dịch nghĩa:
Quan tham trấn Bắc Giang thêm rạng rỡ
Làng Kiệt Đặc sau khi gặp gió cánh chim hồng thêm khỏe
Khoa Đinh Mão văn vật mới mở mang
Người làng Tạ Xá đỗ đầu khoa thi hương
Nhân vật xưa nay đều được nêu cao
Không thiếu người tài mới biết nguồn dòng từ trước
Bia bát cổ đề vịnh chưa được đầy đủ
Thơ ca ngũ ngôn cũng chưa tả hết được
Tràng văn Đinh Mão khoa này
Họ Lê Tạ Xá đỗ ngay hàng đầu
Nhân vật thực trước sau tiêu biểu
Nguồn dòng xa không thiếu người tài
Thơ kia bát cổ mấy bài
Ngũ ngôn thơ hứng văn hay còn truyền.

Nguyễn Tú (người làng Kiệt Đặc)
Ông Nguyễn Tú đỗ hương cống triều Lê. Đương thời nhà Tây Sơn cùng ông Trần Đĩnh khởi nghĩa ở thành Phao Sơn. Năm Nhâm Tuất, triều Nguyễn lục dụng các nghĩa sĩ, xuống chiếu ban cho ông làm tri phủ Thái Bình. Nhậm chức vài năm, đến năm Kỷ Tỵ làm chức tham hiếp trấn Kinh Bắc.

Lê Duy Triện
Người làng Tạ Xá, tổng Cao Đôi, đậu giải nguyên (đỗ đầu khoa thi hương) khoa Ất Mão.

Nguyễn Tri Hoa
Người làng Hộ Xá, đậu hương cống, làm thơ bát cổ, khắc vào bia đá để ở bên tảđền thờ tiên hiền phía bắc phủ lỵ

                           THƠ BÁT CỔ

1.Trạng nguyên cổ đường
(Nhà cổ của trạng nguyên: tức là nhà dạy học của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi)

Dịch âm:
Trạng nguyên tây tịch kỷ hà niên
Kỷ độ hoang khư kỷ độ thiền
Nam ngạn quất lâm nhân bất cải
Đông kha mộc đạc địa tương truyền
Thi thư trùng hoán tư văn thống
Tinh nhật trường bi hậu học thiên
Ngũ thập niên lai khôi đỉnh tích
Vô cùng đạo thể lão sơn xuyên.
Dịch nghĩa:
Nhớ năm nào quan trạng ngồi chiếu phía tây (1)
Mấy độ gò hoang mấy độ vắng vẻ như cảnh chùa
Rừng quýt ở nam ngạn cảnh không đổi khác
Tiếng mõ ở Đông kha đất ấy vẫn vang truyền
Thi thư thêm rạng rỡ truyền thống nho học
Ngôi sao mặt trời mãi mãi sáng soi cho hậu sinh
Năm mươi năm trời nêu cao dấu tích
Đạo đức cùng thọ mãi với non sông.
Tạm dịch thơ:
Giảng đường quan trạng nhớ năm nào
Mấy độ gò hoang cảnh vắng sao?
Tiếng mõ Đông Kha vang đất đó
Vườn cam nam ngạn thấy người đâu?
Tư văn truyền mãi dòng thi lễ
Hậu học ngửa nhìn ánh núi sao (2)
Năm chục năm trời nên dấu tích
Đạo cùng non nước mãi dài lâu.

2. Tiều Ẩn cổ bích
(Nhà cổ của Tiều Ẩn tiên sinh)

Dịch âm:
Phượng Hoàng sơn thượng bạch thôn khư
Tiều Ẩn tiên sinh cổ bích dư
Phiến thạch quang mang minh nguyệt phủ
Bán tường phiếu diểu bạch vân lư
Phượng tung tự cổ hồn vô tại
Thắng cảnh vú kim tận bất như
Lẫm liệt anh phong thiên cổ tại
Trùng sơn dong bổ phỏng u cư.
Dịch nghĩa:
Trên núi Phượng Hoàng một khu đất vắng vẻ
Đó là chỗ nhà cũ của Tiều Ẩn tiên sinh
Phiến đá lấp lánh ánh trăng sáng soi
Nửa tường chơ vơ làn mây trắng phủ
Dấu cũ ngày xưa không còn gì nữa
Cảnh đẹp tới nay đều hiu quạnh cả
Anh phong lừng lẫy ngàn thuiở vẫn còn
Dạo bước sườn non hỏi thăm chỗ ở người ẩn dật.
Tạm dịch thơ:
Núi Phượng thôn hoang cảnh vắng thay
Nhà xưa Tiều Ẩn vẫn còn đây
Sáng soi mảnh đá trơ vầng nguyệt
Nhà trọi nửa tường phủ bóng mây
Dấu cũ còn đâu nguyên lúc trước
Cảnh vui hầu đã khác ngày nay
Anh phong lẫm liệt (3) còn truyền mãi
Dạo bước trên non hỏi chốn này.

Ghi chú
(1). Chiếu phía tây: chiếu khách ngồi, đây là chỉ vào chiếu thày dạy học.
(2). Núi sao: núi Thái Sơn và sao Bắc Đẩu, tỏ lòng ngưỡng mộ
(3). Anh phong lẫm liệt: chói sáng lẫm liệt, ý nói đạo đức phong cách của Chu Văn An tốt đẹp, làm cho mọi người kính phục

8/2/2014
Đỗ Đình Tuân


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...