Trần Quý Nha (4)
8. NÚI CÔN LÔN
Núi Côn
Lôn ở xã Chi Ngãi, huyện Chí Linh 1. Hình núi như một con thú nằm phủ
phục. Trên núi có một cái động rộng rãi gọi là động Thanh Hư. Dưới núi có một
hòn đá, nước suối chảy ngầm ở dưới gọi là cầu Thấu Ngọc. Quảng dư ký và
An Nam chí đều nói núi Côn Lôn có động Thanh Hư và cầu Thấu Ngọc, tức là chỗ
này. Dưới chân núi rộng rãi bằng phẳng như chiếu trải. Hai bên tả hữu có nhiều
núi bao bọc hết lớp nọ đến lớp kia. Núi Yên Phụ cách xa hơn trăm dặm, đứng thẳng
chầu lại ở trước mặt. Dưới núi có một cái ao vuông, nước trong leo lẻo. Hai bên
nước suối chảy qua trước núi, rồi lại vòng quanh vài dặm chảy ra con sông cái.
Lên núi ngắm trông thật không chán mắt. Quả là một cảnh lâm tuyền rất đẹp vậy.
Trúc Lâm
đệ nhị tổ Pháp Loa bắt đầu khai thác núi ấy rồi Huyền Quang đến tu ở đó, sau
thành ra một danh lam. Trần triều đại tư đồ Băng Hồ tướng công (tức là Trần Nguyên Đán) làm nhà ở núi ấy. Về
sau cháu ngoại là Quan Phục hầu Ức Trai tiên sinh (Nguyễn Trãi) cũng về dưỡng
lão ở đó. Những thơ đề vịnh thường thấy chép ở tập Việt Giám . Quốc triều
Thánh Tông Hoàng Đế đề một bài thơ rằng:
Tĩnh
thổ lâu đài cảnh trí kỳ,
Cổ
nhân trầm tích thậm y hy.
Nhất
thiên thảo mộc cung ngâm thưởng,
Tứ
cố giang sơn nhập chỉ huy.
Đại
hữu phế hưng kim diệc tích,
Sự
vô ký tái thị da phi.
Nhàn trung tự hữu nhàn trung lạc,
Phó dữ tăng đồng phó tự tri.
Nghĩa là:
Lâu
đài tĩnh thổ phong cảnh thanh kỳ,
Dấu
cũ của người xưa rất lờ mờ.
Một
trời cây cỏ cung ngâm thưởng,
Bốn
phía non sông vào chỉ huy.
Xưa
nay đời nào cũng có sự hưng phế,
Việc
không ghi chép phải như trái.
Trong
nhàn tự có cái vui của nhàn
Phó
cho tăng đồng tự biết ý.
Bài
này cũng có ý cảm khái. Nay xét di tích của Pháp Loa và Huyền Quang, thì không
còn thấy gì, chỉ còn một ngôi chùa cổ và cái am nhỏ đó thôi.
Gần
đây, Thủ tướng Nguyễn Công Hãng (1680-1732) đi qua chùa, sai tăng nhân tạc tượng
hai vị hiền giả để thờ. Hai pho tượng ấy nay vẫn còn.
Tục
cũ cứ đến đầu năm mới, Trai thanh gái lịch đến đây vãng cảnh, đường sá đi lại
đông như mắc cửi. Thực là một nơi đại thắng tích.
Chú thích:
1-Ngày
trước thuộc huyện Phượng Nhãn, xứ Kinh Bắc.
2-Tĩnh
thổ: chỉ đất Phật, những nơi chùa chiền.
9. NÚI PHƯỢNG HOÀNG
Núi
Phượng Hoàng ở xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh. Trong núi thâm u tịch mịch. Núi Voi
đối lập, sông Miết chảy ngang, thực là một nơi thắng cảnh. Lên núi ngắm trông,
khiến người ta có cái tư tưởng quên đời.
Đời
Trần Tiều Ẩn tiên sinh (Chu Văn An) sau khi dâng Thất trảm sớ (Bài sớ
xin chém bảy người), bỏ quan về nhà. Tiên sinh ưa non nước Chí Linh, đến làm
nhà ở tức là núi này. Việt âm thi tập chép những bài thơ Miết trì
thanh lương (Ao Miết trong mát) đều là vịnh những thắng tích ở vùng này. Tập
Lữ Đường vịnh núi Phượng Hoàng có câu rằng:
Tương
phùng vị hữu hưu quan tước
Linh Triệt 1
hoàn ưng tiếu ngã phầu
Nghĩa
là:
Lúc
gặp nhau chưa có hẹn ước thôi quan về nghỉ hưu
Linh
Triệt có nên cười ta không?
Tương
truyền dưới núi có giếng. Truyền kỳ lục 2 chép rằng sư Pháp
Vân cũng đến tu ở núi đó. Hiện nay có rất nhiều tăng nhân trụ trì nơi ấy. Người
nào cũng giỏi phù chú vì được thần linh ở núi mặc trợ âm phù.
Tục
truyền núi ấy sản xuất một thứ son, sắc rất tươi đẹp, khác hẳn son các nơi
khác. Tập thơ Lữ Đường có câu:
Thạch
nham đa quật vị tầm châu
Nghĩa
là:
Đào
nhiều đất đá để lấy son.
Tương
truyền dưới núi có giếng nước đỏ như son. Người ta lấy ống tre chọc xuống đáy
giếng để múc son, nhũn như bùn, đem phơi khô thì rắn lại. Hạng son ấy là thượng
phẩm.
Gần
đây có nhiều người lấy son ấy đem bán ở các chợ. Trung sứ thấy đem bán bèn hỏi
chỗ sản xuất và cho vào ngạch thuế. Dân làng kêu xin miễn thuế. Kêu mãi không
được, họ bèn rủ nhau lấy những hòn đá lớn láp kín miệng giếng, rồi mời quan về
khám. Quan đến khám xét không thấy dấu vết gì, bèn cho miễn thuế. Nhưng về sau
dân làng cũng không biết giếng ở chỗ nào. Những son bây giờ không phải là sản vật
cũ.
Chú thích:
1-Linh
Triệt: tên tự của Chu Văn An
2-Truyền
kỳ lục: tức truyền kỳ mạn lúc của Nguyễn Dữ
10. ĐỘNG HUYỀN THIÊN
Thế
núi tuy hẹp, nhưng quần phong củng lập, hai cánh giương ra, như loan lượn phượng
múa, cũng là một cảnh trí thanh quang vậy.
Thời
Trần, đạo sĩ Huyền Vân luyện thuốc trường sinh ở động ấy nên vua đặt tên là động
Huyền Thiên. Lại có cung Tử Cực và điện Lưu Quang. Đại tư đồ Băng Hồ tướng công
đề thơ rằng:
Lưu
Quang điện hạ tùng thiên thụ,
Tận thị kình thiên
nhất thủ tài,
Nghĩa
là:
Hàng
ngàn cây thông ở dưới điện Lưu Quang,
Đều
cai chót vót là do một tay trồng.
Những
cung điện ấy ngày nay không còn di tích gì, chỉ còn một ngôi chùa đá.. Gần đây
chùa trồng nhiều thông, cành lá rậm rạp, trông như những đám mây. Thật là đúng
với câu thơ cổ và đất ở đây ưa tròng thông.
12.
SÔNG LỤC ĐẦU
Sông
Lục Đầu ở huyện Chí Linh, giáp các huyện Phượng Nhãn, Yên Dũng, Quế Dương , Gia
Định. Một chi từ sông Phượng Nhãn đi xuống 1, một chi từ sông Xương
Giang đi tới 2, hội lại thành ngã ba sông 3. Một chi từ
sông Như Nguyệt đi xuống 4, một chi từ sông Tam Giang đi lại 5,
gặp nhau ở sông Bình Than. Sông này trong sạch, nước thơm ngon, người ta gọi là
nước Bình Than. Các ngọn sông hội lại ở sông Triều Dương làm ra một khúc sông rất
rộng lớn. Ở đấy lại chia ra hai chi. Một chi chảy đến bến đò Bàn Khê rồi đi về
phía nam 6, một chi chảy đến vũng Trần Xá rồi đi về phía đông 7.
Tất cả sáu chi ấy làm thành sông Lục Đầu. Giữa sông có bãi cát gọi là bãi Đại
Than. Các nhà phong thủy gọi là kiểu đất “Lục long tranh châu” (Sáu con rồng
tranh nhau một hòn ngọc), tưởng cũng có lý. Vậy xin chép ra đây để các nhà bác
học tham khảo.
Chú thích:
1-tức
là sông Lục Nam
ngày nay.
2-
tức là sông Thương ngày nay.
3-
tức là ngã ba sông ở Trạm Điền nay thuộc xã Hưng Đạo Chí Linh. Bên Yên Dũng (Bắc Giang) gọi là ngã ba Nhãn
4-tức
là sông Cầu ngày nay.
5-tức
là sông Đuống ngày nay.
6-tức
là sông Thái Bình ngày nay.
7-tức
là sông Kinh Thày ngày nay.
8/8/2012
Đỗ Đình Tuân
(Sưu tầm, giới thiệu)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét