Trần Quý Nha (3)
5. TRẠNG NGUYÊN PHẠM DUY TRĨ
Ông người xã Xác Khê huyện Chí
Linh, thủa bé bố chết, mẹ nuôi. Khi ông lên tám, chín tuổi, bấy giờ Thượng thư
Nguyễn Khắc Kính, người xã Thanh Duy, huyện Siêu Loại chưa đỗ, đến ngồi dạy học
ở làng ông. Mẹ ông đến hỏi Khắc Kính rằng:
-Tôi có một đứa con nhỏ muốn xin
vào, thì phải biện những lễ vật gì?
Khắc Kinh cười nói rằng:
-Hậu bạc tùy tâm chứ không có lệ
ngạch nào cả.
Bà nói rằng:
-Giết trâu có được không? Nhà tôi
có một con trâu để cày. Nhưng việc vào học rất là hệ trọng, tôi xin giết thịt để
lễ tiên sư.
Khắc Kính nói:
-Như thế thì hậu hĩnh lắm!
Bà bèn giết trâu làm lễ. Làm lễ
xong, bà xin Khắc Kính đặt tên cho con và nói:
-Cháu ở họ Phạm, tên tục là Trĩ.
Những người trong họ đều đặt tên ba chữ và thường hay đệm chữ “Duy”. Vậy xin
tiên sinh châm trước và đặt tên cho cháu.
Trước kia có lần Khắc Kính nằm mơ
thấy mình đỗ mà trong bảng Tiến sĩ, người đỗ đầu tên là Phạm Duy Trĩ. Ông tỉnh
dậy ghi thấy tên ấy. Nhưng ông nghĩ các văn sĩ thời bấy giờ không có họ tên như
thế. Ông bèn đi dạy khắp trong nước để tìm xem có người nào tên như thế không,
nhưng tìm mãi mà chẳng thấy ai cả. Đến nay ông thấy bà nói, thì lấy làm sửng sốt
và bảo bà rằng:
-Cháu sẽ cùng đỗ một khoa với
tôi.
Khắc Kính bèn dậy ông học. Tiên
sinh thấy ông thông minh khác thường, thì mừng lắm, nói:
-Thế này thì ta sẽ được đỗ ngay,
không bị chậm nữa.
Khoa Nhâm Tuất (1562), niên hiệu
Quang Bảo thứ 9, đời Mạc Phúc Nguyên, ông và Khắc Kính cùng đỗ Tiến sĩ. Bấy giờ
Khắc Kính tuy đã nhiều tuổi, nhưng từ chương không kém lúc thiếu niên, và vẫn
có chí khí tranh khôi đoạt giáp. Hôm vào thi Đình, Khắc Kính bảo ông rằng:
-Trạng nguyên nên nhường cho thầy.
Duy Trĩ khiêm tốn xin vâng. Khi
viết đầu bài xong, Khắc Kính bỗng nhiên đau bụng, rồi đau mãi đến trưa, chỉ nằm
không làm được bài. Khắc Kính bèn nhớ tới giấc mộng ngày trước, bèn ngửa mặt
lên trời khấn rằng:
-Tôi không dám tranh Trạng nguyên
với Duy Trĩ. Xin thần linh phù hộ để cho tôi được viết đủ quyển.
Khấn xong thì khỏi đau bèn cầm
bút viết bài.
Đến khi truyền lô, ông đỗ Trạng
nguyên, Khắc Kính đỗ Bảng Nhãn. Do đó đủ
biết người ta được vinh tiến đều có số, và thường có điềm báo trước cho biết.
Phương chi mẹ ông sống rất độ lượng, thì tất được hưởng phúc lớn, chứ đâu phải
ngẫu nhiên mà được.
Tương truyền ông là học trò Trần
Văn Phạm. Văn Phạm thường nói thế nào ông cũng đỗ đại khoa, và để cho nhà ông một
ngôi đất, quyết định đến năm Mùi thì đỗ đại khoa. Văn Phạm điểm huyệt lập hướng
xong thì về. Ông mời một thầy địa lý Trung Quốc đến xem lại. Thầy địa lý ấy lập
hướng khác, rồi ông đem mộ đến mai táng.
Văn Phạm không biét đã đổi hướng
khác, tự tin mình giỏi nghề địa lý, và tuyên bố ở trong triều rằng:
-Trạng nguyên năm nay sẽ về tay
Duy Trĩ, là học trò của tôi.
Khi vào thi Hội ông bị trượt. Bấy
giờ Văn Phạm đang làm quan ở ngoài, nghe tin ông hỏng thi bèn về nhà, đến mộ
xem lại, thì thấy sai hướng. Văn Phạm hỏi, ông cứ sự thực thưa và xin tạ lỗi.
Văn Phạm bèn ngồi vào chỗ huyệt, sai ông theo hướng đầu và hướng chân cắm cọc
tiêu chí và mai táng lại. Văn Phạm quả quyết nói rằng:
-Nếu theo hướng ấy mà không được
hiệu nghiệm, thì tôi sẽ đốt hết các sách đã học, để khỏi làm lỡ dở người khác.
Năm ấy quả nhiên ông đỗ Trạng
nguyên. Trần Văn Phạm thật là có kỳ tài
vậy. Ngôi đất ấy long mạch đến từ vị Tân và ứng vào vị tốn, chín khúc chầu phía
trước, huyệt ở khe suối nhỏ, một mô đất nhô lên ở chính giữa cách huyệt rất gần.
Trần Văn Phạm để hướng ấy, thì quả nhiên đến khoa trúng tuyển. Người Trung Quốc
để theo hướng khác, tuy hợp nhãn cách, nhưng không phát, đủ biết thuật địa lý
cũng khó thực. Ngôi đất ấy ngày trước có người phê bình rằng: “Núi xã Xác Khê
chạy quanh về phía Đông, có thể hy vọng đỗ đạt cao” . Điều này nay đã ứng nghiệm.
Tương truyền khi ông còn bé, một
người ra cho ông câu đối rằng:
Trượng phu chí khí tương kỳ, vật
di tiểu, hiềm giới ý.
Nghĩa là:
Kẻ trượng phu chí khí tương kỳ,
chớ lấy hiềm nhỏ mà khác ý.
Ông đối rằng:
Đế vương thi vi khí tượng, tất
hữu đại quá ư nhân.
Nghĩa là:
Bậc đế vương thi vi khí tượng, tất
có điều lớn hơn hẳn người.
Khoa danh sự nghiệp của ông đại
khái đã thấy ở đó.
Sau khi ông đỗ, nhà nước gặp lúc
nhiều việc, khi thì ông lên Nam Quan giao thiệp, khi thì ông đem quân đi đánh
giặc. Ông làm đến Lại bộ Tả thị lang Xác Khê hầu. Những tác phẩm của ông ngày
nay chỉ còn có 10 bài thơ đưa cho người Minh trong khi hội khám địa giới ở Nam
Quan. Còn các bài khác đều thất truyền.
6. DƯƠNG TỒN
Ông
người xã Lục Dương 1, huyện Chí Linh, có tiếng hay chữ, là tôn sư thời
bấy giờ. Ông rất giỏi về phú. Hồi ấy có câu ngạn ngữ rằng “Dịu dàng như phú
Dương Tồn”. Bấy giờ có một triều sĩ sưu tập những bài phú của ông. Đàn bà trẻ
con đều biết tiếng ông. Ông đỗ Hương cống đời Mạc. Gặp lúc loạn lạc, ông không
ra làm quan. Ông vào huyện Quỳnh Lưu, xứ Nghệ An dạy học, rồi làm nhà ở đó. Huyện
ấy phía bắc giáp các dân man liêu, xưa nay không có học hành bao giờ. Ông đến mở
trường dạy học. Về sau học trò là Hồ Sĩ Dương người xã Hoàn Hậu là người đỗ
khai khoa làng ấy, mở đầu cho việc khai phá một cõi “hoang vu”. Từ đó văn phong
đại chấn, khoa nào cũng có người đỗ. Làng ấy bèn thờ Dương Tồn làm tiên hiền và
cho con cháu ông được miễn trừ các thư sưu dịch, lệ ấy đến nay vẫn còn.
Ông
văn học có thừa nhưng không muốn làm quan. Cứ đến khoa thi hương thì ông vào
trường thi hộ người khác, thường thường bị bắt. Bấy giờ Hồ Sĩ Dương đang tại chức,
thường can ông nhưng ông không nghe, vì ông lấy việc đó làm tiêu khiển.
Tương
truyền ông rất giỏi về nghề xem tướng và xem địa lí. Ông đi chơi khắp trong nước
tìm đất cho mọi người. Ông đến đâu là lấy vợ và làm nhà ở đấy, được gọi là thày
năm phương. Những người được đất phần nhiều phát đạt.2
Bấy
giờ vua sắp dựng phủ đường, Hồ Sĩ Dương tiến cử ông lên vua để cắm hướng. Nhân
ngày tết Đoan dương, vua đem tất cả lễ vật của người ta cung tiến biếu lại ông.
Khi ông về, vua sai Vân Quận công người xẫ Tam Điền đem thuyền tiễn đưa đến tận
nhà. Ông được vua hậu đãi như thế.
Ông lại
giỏi binh pháp, đem dạy cho Hồ Sĩ Dương. Khi Sĩ Dương sang sứ Trung Quốc, từng
giúp Trung Quốc phá giặc. Ở nước nhà thì Sĩ Dương Nam chinh lập được nhiều
công. Đó đều là nhờ binh pháp của ông truyền cho.
Sĩ
Dương sau lúc hiển quý, thờ ông càng kính cẩn. Sau khi ông mất, cứ đến ngày giỗ
thì làm lễ cúng tế thật to. Học trò người nào không đến giỗ thì bị Sĩ Dương
trách mắng. Ôi ! Công đức dạy người to lớn lắm, nên được hậu báo.
Tập
phú của ông có hàng trăm ngàn bài. Nhưng nay chỉ thấy những bài phú tám vần
như: Cao Tổ kiếm (Gươm của vua Cao Tổ), Ngọa Long (Rồng nằm-chỉ
Gia Cát Lượng), Bạch y sơn nhân (Người núi áo trằng), Áp tử từ kê mẫu
(Con vịt từ biệt mẹ gà), Du giang hồ (Đi chơi sông hồ), Thái Bạch
(Lý Bạch), Hạng Vũ biệt Ngu Cơ (Hạng Vũ từ biệt nàng Ngu Cơ), Đạo
đức vi lệ, nhân nghĩa vi uy (Đạo đức làm đẹp, nhân nghĩa làm uy), Nghênh
Xuân uyển (Vườn Nghênh Xuân), Cương thổ phục cựu Hán Đường (Cương thổ
đem lại Hán Đường cũ), Dĩ thiên hạ vi tâm (Lấy thiên hạ làm lòng). Những
bài phú này rất hay, đọc lên như ăn miếng cơm ngon vào miệng. Danh tiếng không
phải là hư truyền.
Con
ông là Dương Phổ cũng hay phú. Năm 12 tuổi, Phổ ở Nghệ An về thăm quê. Một buổi
Phổ bế em ra chơi chợ Lạc Dương, thấy một người đàn bà nói rằng:
-Phú
ông Tỏi, hỏi làm gì?
Ông
liền hỏi người đàn bà ấy rằng:
-Bà ở
đâu đến đây? có lẽ bà ở gần làng ông Tỏi phải không?
Chợt
có một người đáp rằng:
-Tôi ở
gần nhà ông ấy.
Ông
bèn dùng lời nói thô bỉ bảo người ấy rằng:
-Nhờ
ông về bảo Tỏi rằng thiên hạ còn có nhiều người có dương vật dài to, chứ không
phải chỉ có một mình tỏi có. Nếu Tỏi muốn thi phú thì mời Tỏi đến nhà tôi.
Người
ấy về bảo ông Tỏi. Ông Tỏi tức giận tìm đến nhà ông Phổ. Ông Phổ mời vào nhà.
Sau khi nghỉ ngơi một lúc, thì ra đầu bài. Ông Phổ lấy sách mở ra trúng ngay
vào chỗ “Phu Tử tại Tề văn thiều” (Khổng Tử ở nước Tề nghe nhạc thiều, bèn ra đầu
bài là “Phu tử văn thiều phú” (Bài phú Khổng Tử nghe nhạc thiều). Rồi hai
người cùng làm.
Bài của
ông Phổ mở đầu có những câu này: “Đại nhân ất kỷ tư văn tại ty. Tập đại
thành kim thanh ngọc chấn, đức hạnh tháo nhân hành an chi” Nghĩa là: Đại
nhân ất kỷ(chỉ Khổng Tử) văn ấy ở đó. Vàng ngọc tập thành những tiếng, đức hạnh
đến an hành sinh tri.
Ông Tỏi
trông thấy mấy câu ấy, lấy làm sợ lắm, bèn gác bút xin rút lui. Ông Phổ mời ông
Tỏi ngồi lại, đợi ông làm xong bài hãy về. Làm xong, ông đưa cho ông Tỏi xem,
ông Tỏi rất làm thán phục. Bài phú ấy và bài phú Thu thanh (Tiếng mùa thu)
của ông đều được truyền tụng.
Năm
18 tuổi, bản huyện mở kỳ khảo hạch các sĩ tử trong huyện. Đầu bài thi là “Thu
thanh phú”. Bài của ông hay nhất, ông được đỗ đầu.
Chú thích:
1-Lục
Dương: có sách chép Lục Dương là thôn Triều Dương.
2-Chẳng
hạn như âm phần họ Vũ thôn Tam Điền, huyện Phượng Nhãn là do ông Dương Tồn tìm
đất cho.
7. TRÍ SĨ NGUYỄN QUANG TRẠCH
Ông
người xã Kiệt Đặc huyện Chí Linh, thông minh ngay từ bé. Năm ông lên 7 tuổi một
người vào bậc cha chú ra cho ông một câu đối rằng:
Thất
tuế thần đồng tử
Nghĩa là:
Trẻ
thần đồng bảy tuổi
Bấy
giờ ông đang đọc sách Hạ kỷ Đại Vũ. Ông đối ngay rằng:
Bát
đại Hoàng Đế tôn
Nghĩa là:
Cháu
tám đời vua Hoàng Đế.
Người
ấy kinh ngạc nói rằng ngày sau ông tất thành đại danh.
Về
sau ông đã nhiều tuổi mà vẫn chưa đỗ. Khoa Giáp Thìn (1664) lấy 13 Tiến sĩ,
nhưng ông không trúng tuyển, Bố ông giận nói mỉa rằng:
-Khoa
này lấy 13 Tiến sĩ mà không đỗ, lúc nào mới thành danh?
Khoa
Đinh Mùi (1667) niên hiệu Cảnh Trị thứ 5 đời vua Lê Huyền Tông, chỉ lấy có 3 Tiến
sĩ thì ông đỗ đầu. Hôm vào thi Đình, có người hỏi ông đỗ thứ mấy? Ông đùa đáp lại
rằng:
-Tôi
trúng thứ ba cũng là cao rồi còn hỏi làm gì?
Ông ứng
chế trúng cách, làm quan đến Hình bộ Đô cất sự trung rồi về trí sĩ, hưởng thọ
hơn 70 tuổi. Ông có hai người con trai là Quang Chiêu và Quang Dương đều đỗ Tiến
sĩ.
7/8/2012
Đỗ
Đình Tuân
(Sưu tầm, giới thiệu)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét