Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

Vài lời chia sẻ cùng tác giả bài thơ: TA VỀ



                      
Sau khi có lời phúc đáp của ông tôi đã sửa lại những chỗ sai biệt giữa bản gốc Phạm Thế Minh và bản lưu truyền trong dân gian mà tôi được biết. Thực ra sự sai biệt giữa hai bản không có gì lớn và chưa có ảnh hưởng gì đáng kể đến bài thơ. Nó chỉ làm thay đổi chút ít tâm trạng cụ thể.  Chẳng hạn câu “Cũng là xong nợ công danh” thì tâm trạng tác giả lúc ra về còn vương chút gượng gạo luyến tiếc nhưng cũng chấp nhận được. Còn ở câu “ Thế là hết nợ công danh” thì tâm trạng lúc ra về thật thoải mái nhẹ nhàng không còn gì là vương vấn nữa. Thậm chí đây còn là điều mà tác giả đã chờ đợi từ lâu. Theo nhận xét của riêng tôi thì câu nguyên tác của ông đúng với tâm trạng của ông hơn. Còn câu lưu truyền thì dân gian đã lồng tâm trạng của mình vào. Trong trường hợp này thì giữ lại câu nguyên tác của tác giả hay hơn.

Nhưng ở câu “Phẩm hàm to, cái thấp hèn càng cao” thì lại không hay bằng câu trong bản lưu truyền “Phẩm hàm cao, sự thấp hèn càng cao”. Về mặt nội dung ý nghĩa hai câu trong hai bản đều không có gì khác nhau cả. Có thể nói nó hoàn toàn tương đương. Nhưng về ngôn ngữ thì bản lưu truyền hay hơn bản nguyên tác ở mấy điểm cụ thể sau:
1/Trong tập quán ngôn ngữ khi nói về quan chức dân ta hay nói “quan to, quan bé” , rồi “quyền cao chức trọng” . Nhưng nói về “phẩm hàm” (cũng là quan tước thôi) thì lại hay kết hợp với cao thấp chứ ít nói phẩm hàm to, phẩm hàm bé. Có lẽ chỉ có lần làm câu đối tặng cô Tư Hồng là cụ Nguyễn Khuyến nói đến “hàm cụ lớn”:
Cửu phẩm sắc phong hàm cụ lớn
Trăm năm danh giá của bà to
Nhưng chữ “hàm” cụ Nguyễn Khuyến dùng thì đã chuyển nghĩa rồi. Nó không còn là cái “hàm cửu phẩm” mà cô con gái Tư Hồng bỏ “tiền làm đĩ” ra để mua danh cho bố nữa. Mà “hàm” đã trở thành cái miệng của ông ta. Và ở vế sau tác giả mang cái “ miệng này” để đối với cái “của bà to” thì cay độc biết chừng nào ?
2/Trong khi đó ở bản lưu truyền lại dùng “ Phẩm hàm cao” hợp với tập quán ngôn ngữ hơn. Nhưng quan trọng nữa là nó lại tạo ra được một hợp âm rất hài hòa với phần sau của câu “sự thấp hèn càng cao”. Hai cái “cao” này đã dìm “sự thấp hèn” đến tận đáy và dường như không có cơ để “nổi lên” được nữa.
3/ Một điểm nữa cũng cần nói là về chữ “cái” và chữ “sự” thì chữ nào hay hơn ? Về chức năng ngữ pháp thì chữ “cái” và chữ “sự” cũng hoàn toàn giống nhau. Dù dùng “cái” hay dùng “sự” thì cũng  đều làm danh hóa hai chữ “thấp hèn” mà thôi. Nhưng về thanh điệu thì chữ “cái” thuộc thanh nổi còn chữ “sự” thuộc thanh chìm. Dẫu không có một quy định nào, nhưng trong trường hợp cụ thể này thì chữ “sự” thanh chìm dịu nhẹ êm tai hơn là chữ “cái” thanh nổi. Thế nên theo nhận xét của riêng tôi thì về nghệ thuật ngôn ngữ câu trong bản lưu truyền hoàn thiện hơn và nó làm cho câu thơ hay hơn hẳn câu nguyên tác.

Ở câu 14 và câu 15 thì nguyên tác của ông hay hơn bản lưu truyền. Cụ thể hai câu
            Quên đi ganh ghét tị hiềm
            Quên đi cả những ưu phiền được thua.
Rõ ràng là hay hơn hẳn hai câu:
            Để quên đi những tị hiềm
            Và quên đi những nỗi niềm được thua

Tôi cũng rất cảm ơn ông đã gửi tặng tôi hai bài thơ trong chùm thơ ba bài với TA VỀ in trong tập VAI DIỄN. Đó là bài VAI DIỄN:Và bài : NÓI CHUYỆN VỚI NGUYỄN CÔNG TRỨ

Phải nói ngay rằng cả ba bài thơ của ông đều hay cả, đều là những bài thơ đáng đọc cả. Theo lời bộc bạch của ông: “Tôi vốn là người làm khoa học- công nghê, rồi làm quản lý ít năm. Sự hiểu biết và viết là về KHCN chuyên ngành. Còn viét văn hay làm thơ chỉ là niềm vui , giúp mình tự tu dưỡng và tự động viên mình vượt qua khó khăn và cả những cám dỗ trong đời. Vì thế nếu có câu văn hoạc bài thơ nào được người đọc yêu thích thì đó là niềm hạnh phúc lớn lao và cũng là niềm vinh hạnh ngoài sự mong chờ của tôi”.
Trong văn chương thường có chuyện như thế đấy ông ạ. Nhiều người bỏ cả đời ra làm văn chương để cầu danh thì danh lại chẳng đến. Nếu như anh “bất tài” và “vô hạnh” chỉ có mỗi cái thói xấu là “háo danh” thì thậm chí còn “tiếng xấu để đời”.

Chúng tôi làm nghề giảng dạy văn học trong nhà trường phổ thông. Thực chất của công việc này cũng chỉ là một dạng của việc “truyền bá văn chương” thôi. Nhưng vợ chồng tôi cũng đều “mất dạy” cả rồi. Bây giờ rỗi rãi lại thêm “bệnh nghề nghiệp” nên rất thích tìm đọc những áng thơ hay để chia sẻ cùng bầu bạn. Tôi gặp bài TA VỀ của ông trong một dịp đi họp lớp cũ (Lớp D, khóa 4, Trường cấp 3 Hồng Quang Hải Dương, 1959-1962). Một ông bạn tôi đã say sưa đọc bài TA VỀ của ông và tôi đã xin về một bản. Đáng buồn là bây giờ thơ ra đời nhiều nên tỷ lệ thơ dở cao chúng gây nhiễu và làm người đọc nản đọc thơ. Thơ phong trào thì nhàm nhạt chủ yếu ai làm ra thì người ấy tự đọc lấy. Chứ công chúng thì mấy ai chịu nổi tra tấn mà nghe mà đọc (nhất là công chúng trẻ). Còn giới thơ chuyên nghiệp thì lại thiên về phi truyền thống cũng không vào được lòng công chúng. Cuối cùng chỉ người đọc là bơ vơ. Nhưng đọc những bài thơ của ông tôi tin vào sức sống của thơ truyền thống cũng như tin vào sức sống của nhân cách người.

Cũng là nhân mấy lới phúc đáp và tặng thơ của ông, tôi xin có mấy lời  thành thật chia sẻ cùng ông và mọi người. Chúc ông quãng đời “vĩ thanh” này luôn thanh thản để ngắm hoa mai và nếu có thể thì sinh nở thêm vài cô cậu thơ xinh đẹp nữa. Xin chào ông.
                                               
Chí Linh 12/6/2014
Đỗ Đình Tuân

Sau đây là ba bài thơ trong chùm thơ của Phạm Thế Minh
(Bài Ta Về đã sửa lại theo bản của tác giả)

Bài 1: Ta về

            Cũng là xong nợ công danh
            Ta về gặp lại chính mình từ đây
            Mặc trời cao kệ đất dầy
            Ta về làm gió làm mây riêng mình
            Đã ăn nhầm bả hư vinh
            Nào đâu còn biết lòng mình trắng đen
            Đã vào vòng xoáy bon chen
            Phẩm hàm to cái thấp hèn càng cao
            Ta về bạn với trăng sao
            Quên xe máy lạnh bỏ chào bắt tay
            Ta về vui giữa tỉnh say
            Để quên đi những tháng ngày đáng quên
            Quên đi ganh ghét tị hiềm
            Quên đi cả những ưu phiền được thua.

            Sáng nay thanh thản vãn chùa
            Gặp cây mai trắng cũng vừa nở hoa


Bài 2: Vai diễn

                                Khi vào vai Thị Mầu
                                Lẳng lơ sao nhất chị
                                Lúc sắm vai Đào Huế
                                Chị ghen còn ai hơn?
                                Cũng là phấn là son
                                Chị bôi gì cũng đẹp
                             
                                Em mười năm theo nghiệp
                                Không đóng nổi Vai Hề
                                Cười người ta đã chê
                                Khóc người ta cũng chán
                                Chỉ vì không dám diễn
                                Cái vai không thật mình

                                  Nay về lại sân đình
                                  Chiéu chèo dăm bè bạn
                                  Dưới trăng làm Lão Say
                                  Rượu vui tràn tới sáng

                                  Rời ánh đèn hào nhoáng
                                  Chị ơi tìm về đâu?
                                  Đào Huế hay Thị Mầu
                                  Vai nào như cũng chết!
                                                                5/1994

Bài 3: Nói chuyện với Nguyễn Công Trứ

                          Kính chào Uy Viễn Tướng công
                     Con xin làm một cây thông cùng Người
                            Vén mây, khuấy nước mệt rồi
                     Lại mê tom-chát của thời Ông Cha
                            Cụ không lắm đất , nhiều nhà
                     Kim Sơn, Tiền Hải đều là của dân
                              Một đời ái quốc, trung quân
                     Thị phi ai cũng một lần mà thôi
                              Bảng vàng bia đá nhiều người
                      Mấy ai có được khoảng trời lòng dân?

                                Mỗi lần về lại Nghi Xuân
                      Con nghe cụ dậy vững tâm làm người
                                Dân vạn đại, quan nhất thời
                       Lời người xưa cứ học rồi lại quên !
                                                                            6/2005


17/6/2014
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...