(Nguồn:
Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976
Đỗ
Đình Tuân lấy nguồn từ “Trang thơ Nguyễn Trãi” trên Thi viện.net)
THƠ LÀM TRONG KHI CHƯA THÀNH CÔNG (17 BÀI)
THƠ LÀM TRONG KHI CHƯA THÀNH CÔNG (17 BÀI)
Bài 1
聽雨
寂寞幽齋裏,
終宵聽雨聲。
蕭騷驚客枕,
點滴數殘更。
隔竹敲窗密,
和鐘入夢清。
吟餘渾不寐,
斷續到天明。
終宵聽雨聲。
蕭騷驚客枕,
點滴數殘更。
隔竹敲窗密,
和鐘入夢清。
吟餘渾不寐,
斷續到天明。
阮廌
Phiên
âm
Thính
vũ
Tịch mịch u trai lý,
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu tao kinh khách chẩm!
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc xao song mật,
Hoà chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thiên minh.
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu tao kinh khách chẩm!
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc xao song mật,
Hoà chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thiên minh.
Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Nghe mưa
Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.
Dịch thơ
Trong phòng vắng vẻ tối tăm
Suốt đêm không ngủ ta nằm nghe mưa
Tiếng mưa nghe não nùng chưa
Giọt rơi thánh thót mau thưa canh tàn
Cách song khóm trúc mưa ran
Tiếng chuông khẽ vẳng mơ màng đêm sâu
Ngâm hoài có ngủ được đâu
Nghe mưa đứt nối đến đầu bình minh.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 2
贈友人
貧病余憐汝,
疏狂汝似余。
同為千里客,
俱讀數行書。
瓠落知何用,
栖遲諒有餘。
他年淽溪約,
短笠苛春鋤。
疏狂汝似余。
同為千里客,
俱讀數行書。
瓠落知何用,
栖遲諒有餘。
他年淽溪約,
短笠苛春鋤。
阮廌
Phiên
âm
Tặng hữu
nhân
Bần,
bệnh dư liên nhữ,
Sơ cuồng, nhữ tự dư.
Ðồng vi thiên lý khách,
Câu độc sổ hàng thư.
Hộ lạc * tri hà dụng,
Thê trì lượng hữu dư.
Tha niên Nhị Khê**ước,
Ðoản lạp hạ xuân sừ.
Sơ cuồng, nhữ tự dư.
Ðồng vi thiên lý khách,
Câu độc sổ hàng thư.
Hộ lạc * tri hà dụng,
Thê trì lượng hữu dư.
Tha niên Nhị Khê**ước,
Ðoản lạp hạ xuân sừ.
Nguyễn Trãi
Ghi chú
*Hộ lạc: tức "hồ lạc". Hồ là quả bầu rỗng, ý nói trống rỗng, nông cạn, không sâu sắc.
**Nhị Khê: tên một làng thuộc huyện Thường Tín, Hà Đông cũ. Sau sát nhập vào tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội.Nhị Khê vốn là tên hiệu của Nguyễn Phi Khanh, thân phụ Nguyễn Trãi. Sau được học trò lấy làm tên làng (vốn là Ngọc Ổi)
Ghi chú
*Hộ lạc: tức "hồ lạc". Hồ là quả bầu rỗng, ý nói trống rỗng, nông cạn, không sâu sắc.
**Nhị Khê: tên một làng thuộc huyện Thường Tín, Hà Đông cũ. Sau sát nhập vào tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội.Nhị Khê vốn là tên hiệu của Nguyễn Phi Khanh, thân phụ Nguyễn Trãi. Sau được học trò lấy làm tên làng (vốn là Ngọc Ổi)
Dịch
nghĩa
Tặng bạn
Tôi thương anh nghèo mà có
bệnh,
Và anh cũng giống tôi tính ngang tàng.
Cũng là khách ngàn dặm như nhau,
Và cũng đã từng đọc mấy hàng chữ sách.
Tự biết mình như quả bầu rỗng, vô dụng ở đời
May còn có chỗ để tựa nương
Chúng ta đã hẹn nhau nơi Nhị Khê này,
Cùng đội nón cùng bừa buổi xuân sang.
Và anh cũng giống tôi tính ngang tàng.
Cũng là khách ngàn dặm như nhau,
Và cũng đã từng đọc mấy hàng chữ sách.
Tự biết mình như quả bầu rỗng, vô dụng ở đời
May còn có chỗ để tựa nương
Chúng ta đã hẹn nhau nơi Nhị Khê này,
Cùng đội nón cùng bừa buổi xuân sang.
Dịch thơ
Thấy anh nghèo bệnh tôi thương
Xem ra anh cũng ngông cuồng giống tôi
Lại chung đất khách quê người
Mấy trang sách nát cùng vui sách đèn
Bụng như bầu rỗng vô duyên
May nhờ có chốn có bên dựa kề
Hẹn nhau năm khác Nhị Khê
Xuân sang cùng đội nón mê đi bừa.
Đỗ Đình Tuân dịch
27/4/2012
Đỗ Đình Tuân
Bài
3
村舍秋砧
满江河處嚮東丁
夜月偏驚久客情
一種蕭關征婦怨
總將離恨入秋聲
阮薦
Phiên âm
Thôn
xá khách châm
Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh
Dạ
nguyệt thiên kinh cửu khách tình
Nhất
chủng Tiêu quan chinh phụ oán
Tổng
tương ly hận nhập thu thanh.
Nguyễn Trãi
Dịch
nghĩa
Tiếng chày thu nện vải trên sông
Từ
đâu vẳng đến khắp sông tiếng nện thình thình
Trong
đêm quan làm kinh động lòng khách lâu ngày ở đây
(Như)
một nỗi ta than của người chinh phụ có chồng đang ở chốn Tiêu quan
Cả một
niềm ly hận như thấm vào tiếng thu
Dịch thơ
Khắp sông vang vọng tiếng chày
Đêm qua làm khách lâu nay chạnh lòng
Nghe như chinh phụ xa chồng
Đem niềm ly hận hòa cùng tiếng thu.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài
4
亂後感作
神州一自起干戈
萬姓嗷嗷可奈何
子美孤忠唐日月
伯仁雙淚晉山河
年來變故侵人老
秋越他鄉感客多
卅载虚名安用處
回頭萬事付南柯
阮薦
Phiên
âm
Loạn hậu cảm
tác
Thần
Châu (1) nhất tự khởi can qua
Vạn
tính ngao ngao khả nại hà
Tử
Mỹ (2) cô trung Đường nhật nguyệt
Bá
Nhân (3) song lệ Tấn sơn hà
Niên
lai biến cố xâm nhân lão
Thu
việt tha hương cảm khách đa
Táp
thập hư danh an dụng xứ
Hồi
đầu vạn sự phó Nam Kha. (4)
Nguyễn Trãi
Ghi
chú
1.Thần
châu: Xu Diên thời Chiến Quốc gọi Trung Quốc là Xích huyện Thần Châu. Về sau gọi
tất cả là Thần Châu, có ý tôn xưng và chỉ nơi Kinh kỳ. Ở đây tác giả chỉ nước
ta (đất tổ).
2.
Tử Mỹ: Tên hiệu của Đỗ Phủ, đại thi hào đời Đường, được mệnh danh là Lão Đỗ để
phân biệt với một nhà thơ trứ danh khác là Đỗ Mục là Tiểu Đỗ vì trẻ hơn.
3.
Bá Nhân: tức Phan An Nhân, tức Chu Khởi, hiệu là Phan Lạc, làm quant rung thành
với nhà Tấn. Khi nhà Tấn mất, ông chạy sang Giang Đông, nhìn núi sông nhớ quê
hương mà khóc.
4.Giấc
mộng Nam
kha: xưa có người nằm dưới gốc một cây hòe, nằm mơ thấy mình được làm phò mã, thái thú quận Nam Kha. Về
sau đánh giặc bị thua, rồi công chúa cũng chết nên bị thất sủng.
Dịch
nghĩa
Sau loạn cảm
xúc làm thơ
Từ
khi xẩy ra chiến tranh nơi đất tổ (thần châu)
Muôn
dân rên xiết chẳng biết làm sao được
Tử
Mỹ giữ lòng trung một mình với nhà Đường qua năm tháng
Bá
Nhân buồn thương cho sơn hf nhà Tấn
Mấy
năm lại đây biến cố làm người sớm già hơn
Trải
qua mùa thu nơi đất khách khá nhiều cảm xúc
Ba
chục năm hư danh có dùng được gì
Quay
đầu lại vạn sự phó cho giấc mọng Nam Kha.
Dịch thơ
Quê
hương từ thuở nổi can qua
Nháo
nhác lầm than khắp mọi nhà
Tử
Mỹ đau lòng Đường nhật nguyệt
Bá
Nhân thương tiếc Tấn sơn hà
Mấy
năm biến cố người mau xọm
Thu
trải quê người dạ xót xa
Ba chục năm trường không kế dụng
Ba chục năm trường không kế dụng
Quay
đầu muôn việc kệ Nam Kha.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài
5
寄舅易齋陳公
兵餘親戚半離零
萬死殘驅偶一生
往事空成槐國夢
別懷谁舄渭楊情
不來自擬同王式
避亂終當学管寧
欲問相思秋別處
孤齋風雨夜三更
阮薦
Phiên
âm
Ký cữu dịch
trai Trần Công
Binh
dư thân thích bán ly linh
Vạn
tử tàn khu ngẫu nhất sinh
Vãng
sự không thành hòe quốc mộng (1)
Biệt
hoài (2) thùy tả Vị Dương (3)
tình
Bất
lai tự nghĩ đồng Vương Thức (4)
Tỵ
loạn chung đương học Quản Ninh (5)
Dục
vấn tương tư thu biệt xứ
Cô
tề phong vũ dạ tam canh.
Nguyễn Trãi
Ghi
chú
1.Hòe
quốc mộng: tức giấc mộng nước Hòe An. Theo Nam Kha ký của Lý Công Tạ đời Đường,
kể chuyện….(xem chú thịch 4 bài 4)
2.Biệt
hoài: Biệt hoài còn có bản ghi là biệt liên (xa nhau thương nhớ)
3.Vị
Dương: Một địa danh ở Trung Quốc. Theo Kinh Thi thì đây là nơi vua Tấn Khương Công tiễn đưa người cậu. Đây ngụ
ý nói tình cậu cháu.
4.Vương
Thức: Người đời Hán, tự là Ông Tự, thầy dậy của Xương Ấp Vương, được lập lmf Tự
Quân nhưng bị phế vì hoang dâm vô độ. Có người hỏi sao không can gián. Vương Thức
đáp: đã từng can gián qua kinh sách rồi.
5.Quản
Ninh: dân dất Ngụy thời Tam Quốc. Thiếu thời đang ngồi cùng một chiếu học chung
với bạn, thấy bạn bỏ chiếu chạy ra đường xem kẻ giầu sang
Cưỡi ngựa đi qua, Quản Ninh bèn cắt đôi chiếu
không chịu ngồi chung nữa. Cuối đời Hán Quản Ninh tỵ loạn 37 năm ở Liêu Đông, từ
chối mọi chức tước do hai vua Văn Đế và Minh Đế ban cho.
Dịch
nghĩa
Thư gửi cậu
Dịch Trai Trần Công
Sau
chiến tranh bà con bị điêu linh hết phân nửa
Cả
vạn lần suýt chết may còn thân này sống sót
Việc
xưa cũ thành như giấc mộng xứ Hòe
Xa
nhau thương nhớ ai tả được tấm lòng Vị Dương?
Không
đến được tưởng cũng giống như Vương Thức
Chung
quy nên bắt chước Quản Ninh đi tỵ loạn
Muốn
tự hỏi lại mối sầu tương tư của mình
Trong
lòng cô quạnh, (bên ngoài) mưa gió suốt ba canh.
Dịch thơ
Sau loạn
thân quen vãn nửa phần
Vạn lần
suýt chết may còn thân
Chuyện xưa
Hòe mộng hư không cả
Xa cách Vị
Dương nhớ
bội phần
Không đến giống
như Vương Thức ý
Loạn ly nên
học Quản Ninh chân
Tương tư tự
hỏi sầu đôi đoạn
Mưa gió
canh dài một tấm thân.
Đỗ Đình Tuân dịch27/4/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét