Thứ Ba, 24 tháng 4, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 1


(Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976
Đỗ Đình Tuân lấy nguồn từ “Trang thơ Nguyễn Trãi” trên Thi viện.net)

THƠ LÀM TRONG KHI CHƯA THÀNH CÔNG (17 BÀI)

Bài 1
聽雨
寂寞幽齋裏,
終宵聽雨聲。
蕭騷驚客枕,
點滴數殘更。
隔竹敲窗密,
和鐘入夢清。
吟餘渾不寐,
斷續到天明。
           阮廌
Phiên âm
Thính vũ
Tịch mịch u trai lý,
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu tao kinh khách chẩm!
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc xao song mật,
Hoà chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thiên minh.
                  Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Nghe mưa
Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.
Dịch thơ
Trong phòng vắng vẻ tối tăm
Suốt đêm không ngủ ta nằm nghe mưa
Tiếng mưa nghe não nùng chưa
Giọt rơi thánh thót mau thưa canh tàn
Cách song khóm trúc mưa ran
Tiếng chuông khẽ vẳng mơ màng đêm sâu
Ngâm hoài có ngủ được đâu
Nghe mưa đứt nối đến đầu bình minh.
                                    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 2
贈友人
貧病余憐汝,
疏狂汝似余。
同為千里客,
俱讀數行書。
瓠落知何用,
栖遲諒有餘。
他年淽溪約,
短笠苛春鋤。
           阮廌
Phiên âm
Tặng hữu nhân
Bần, bệnh dư liên nhữ,
Sơ cuồng, nhữ tự dư.
Ðồng vi thiên lý khách,
Câu độc sổ hàng thư.
Hộ lạc * tri hà dụng,
Thê trì lượng hữu dư. 
Tha niên Nhị Khê**ước,
Ðoản lạp hạ xuân sừ.
              Nguyễn Trãi 
Ghi chú
*Hộ lạc: tức "hồ lạc". Hồ là quả bầu rỗng, ý nói trống rỗng, nông cạn, không sâu sắc.
**Nhị Khê: tên một làng thuộc huyện Thường Tín, Hà Đông cũ. Sau sát nhập vào tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội.Nhị Khê vốn là tên hiệu của Nguyễn Phi Khanh, thân phụ Nguyễn Trãi. Sau được học trò lấy làm tên làng (vốn là Ngọc Ổi)
Dịch nghĩa
Tặng bạn
Tôi thương anh nghèo mà có bệnh,
Và anh cũng giống tôi tính ngang tàng.
Cũng là khách ngàn dặm như nhau,
Và cũng đã từng đọc mấy hàng chữ sách.
Tự biết mình như quả bầu rỗng, vô dụng ở đời
May còn có chỗ để tựa nương
Chúng ta đã hẹn nhau nơi Nhị Khê này,
Cùng đội nón cùng bừa buổi xuân sang.
Dịch thơ
Thấy anh nghèo bệnh tôi thương
Xem ra anh cũng ngông cuồng giống tôi
Lại chung đất khách quê người
Mấy trang sách nát cùng vui sách đèn
Bụng như bầu rỗng vô duyên
May nhờ có chốn có bên dựa kề
Hẹn nhau năm khác Nhị Khê
Xuân sang cùng đội nón mê đi bừa.
                                   Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 3
村舍秋砧
满江河處嚮東丁
夜月偏驚久客情
一種蕭關征婦怨
總將離恨入秋聲
                  阮薦 

Phiên âm
Thôn xá khách châm
Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh
Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình
Nhất chủng Tiêu quan chinh phụ oán
Tổng tương ly hận nhập thu thanh.
                                   Nguyễn Trãi          
Dịch nghĩa
Tiếng chày thu nện vải trên sông
Từ đâu vẳng đến khắp sông tiếng nện thình thình
Trong đêm quan làm kinh động lòng khách lâu ngày ở đây
(Như) một nỗi ta than của người chinh phụ có chồng đang ở chốn Tiêu quan
Cả một niềm ly hận như thấm vào tiếng thu
Dịch thơ
Khắp sông vang vọng tiếng chày
Đêm qua làm khách lâu nay chạnh lòng
Nghe như chinh phụ xa chồng
Đem niềm ly hận hòa cùng tiếng thu.
                            Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 4
亂後感作
神州一自起干戈
萬姓嗷嗷可奈何
子美孤忠唐日月
伯仁雙淚晉山河
年來變故侵人老
秋越他鄉感客多
卅载虚名安用處
回頭萬事付南柯
                     
Phiên âm
Loạn hậu cảm tác
Thần Châu (1) nhất tự khởi can qua
Vạn tính ngao ngao khả nại hà
Tử Mỹ (2) cô trung Đường nhật nguyệt
Bá Nhân (3) song lệ Tấn sơn hà
Niên lai biến cố xâm nhân lão
Thu việt tha hương cảm khách đa
Táp thập hư danh an dụng xứ
Hồi đầu vạn sự phó Nam Kha. (4)
                          Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Thần châu: Xu Diên thời Chiến Quốc gọi Trung Quốc là Xích huyện Thần Châu. Về sau gọi tất cả là Thần Châu, có ý tôn xưng và chỉ nơi Kinh kỳ. Ở đây tác giả chỉ nước ta (đất tổ).
2. Tử Mỹ: Tên hiệu của Đỗ Phủ, đại thi hào đời Đường, được mệnh danh là Lão Đỗ để phân biệt với một nhà thơ trứ danh khác là Đỗ Mục là Tiểu Đỗ vì trẻ hơn.
3. Bá Nhân: tức Phan An Nhân, tức Chu Khởi, hiệu là Phan Lạc, làm quant rung thành với nhà Tấn. Khi nhà Tấn mất, ông chạy sang Giang Đông, nhìn núi sông nhớ quê hương mà khóc.
4.Giấc mộng Nam kha: xưa có người nằm dưới gốc một cây hòe, nằm mơ thấy mình  được làm phò mã, thái thú quận Nam Kha. Về sau đánh giặc bị thua, rồi công chúa cũng chết nên bị thất sủng.
Dịch nghĩa
Sau loạn cảm xúc làm thơ
Từ khi xẩy ra chiến tranh nơi đất tổ (thần châu)
Muôn dân rên xiết chẳng biết làm sao được
Tử Mỹ giữ lòng trung một mình với nhà Đường qua năm tháng
Bá Nhân buồn thương cho sơn hf nhà Tấn
Mấy năm lại đây biến cố làm người sớm già hơn
Trải qua mùa thu nơi đất khách khá nhiều cảm xúc
Ba chục năm hư danh có dùng được gì
Quay đầu lại vạn sự phó cho giấc mọng Nam Kha.
Dịch thơ
Quê hương từ thuở nổi can qua
Nháo nhác lầm than khắp mọi nhà
Tử Mỹ đau lòng Đường nhật nguyệt
Bá Nhân thương tiếc Tấn sơn hà
Mấy năm biến cố người mau xọm
Thu trải quê người dạ xót xa
Ba chục năm trường không kế dụng
Quay đầu muôn việc kệ Nam Kha.
                        Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 5
寄舅易齋陳公    
兵餘親戚半離零
萬死殘驅偶一生
往事空成槐國夢
別懷谁舄渭楊情
不來自擬同王式
避亂終當学管寧
欲問相思秋別處
孤齋風雨夜三更
                   薦 
Phiên âm
Ký cữu dịch trai Trần Công
Binh dư thân thích bán ly linh
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh
Vãng sự không thành hòe quốc mộng (1)
Biệt hoài  (2) thùy tả Vị Dương (3) tình
Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức (4)
Tỵ loạn chung đương học Quản Ninh (5)
Dục vấn tương tư thu biệt xứ
Cô tề phong vũ dạ tam canh.
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Hòe quốc mộng: tức giấc mộng nước Hòe An. Theo Nam Kha ký của Lý Công Tạ đời Đường, kể chuyện….(xem chú thịch 4 bài 4)
2.Biệt hoài: Biệt hoài còn có bản ghi là biệt liên (xa nhau thương nhớ)
3.Vị Dương: Một địa danh ở Trung Quốc. Theo Kinh Thi thì đây là nơi  vua Tấn Khương Công tiễn đưa người cậu. Đây ngụ ý nói tình cậu cháu.
4.Vương Thức: Người đời Hán, tự là Ông Tự, thầy dậy của Xương Ấp Vương, được lập lmf Tự Quân nhưng bị phế vì hoang dâm vô độ. Có người hỏi sao không can gián. Vương Thức đáp: đã từng can gián qua kinh sách rồi.
5.Quản Ninh: dân dất Ngụy thời Tam Quốc. Thiếu thời đang ngồi cùng một chiếu học chung với bạn, thấy bạn bỏ chiếu chạy ra đường xem kẻ giầu sang
 Cưỡi ngựa đi qua, Quản Ninh bèn cắt đôi chiếu không chịu ngồi chung nữa. Cuối đời Hán Quản Ninh tỵ loạn 37 năm ở Liêu Đông, từ chối mọi chức tước do hai vua Văn Đế và Minh Đế ban cho.
Dịch nghĩa
Thư gửi cậu Dịch Trai Trần Công
Sau chiến tranh bà con bị điêu linh hết phân nửa
Cả vạn lần suýt chết may còn thân này sống sót
Việc xưa cũ thành như giấc mộng xứ Hòe
Xa nhau thương nhớ ai tả được tấm lòng Vị Dương?
Không đến được tưởng cũng giống như Vương Thức
Chung quy nên bắt chước Quản Ninh đi tỵ loạn
Muốn tự hỏi lại mối sầu tương tư của mình
Trong lòng cô quạnh, (bên ngoài) mưa gió suốt ba canh.
Dịch thơ
Sau loạn thân quen vãn nửa phần
Vạn lần suýt chết may còn thân
Chuyện xưa Hòe mộng hư không cả
Xa cách Vị Dương nhbội phần
Không đến giống như Vương Thức ý
Loạn ly nên học Quản Ninh chân
Tương tư tự hỏi sầu đôi đoạn
Mưa gió canh dài một tấm thân.
                     Đỗ Đình Tuân dịch

27/4/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...