Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2011

LAN MAN CHUYỆN LÀNG TÔI (7)


                                         Trại Hai Tô

Mẹ tôi mất được chừng hơn năm thì làng tôi cùng với làng Dâu, Nam Gián Đông và Nam Gián Đoài bị dồn dân lên trại Hai Tô. Ngày nào bọn sếp Tây và lính Bảo Hoàng cũng xuống các làng để đốc thúc việc dỡ nhà, chặt tre lên lập khu làng mới. Một buổi sáng, tôi thấy một tên sếp tây cao cao gầy gầy, mặc quần soóc, áo cộc tay, súng lục trễ ngang hông dẫn lính xuống làng từ khá sớm. Bọn lính ngụy thì đi lùng sục nhốn nháo khắp nơi. Thỉnh thoảng lại nghe một tiếng súng nổ. Chúng bẻ mía, vặt bưởi…và vừa đi, vừa nhồm nhoàm ăn. Tên sếp tây và viên thông ngôn đi theo thì không. Hắn đi vào từng nhà. Bố tôi thấy hắn vào thì chân tay run run, mặt mày tái mét, đứng chắp tay , miệng lẩm bẩm “Lạy quan lớn, lạy quan lớn…!”. Hắn nói xì xồ một câu gì đó bằng tiếng Pháp, viên thông ngôn dịch ra: “ Quan lớn lệnh phải lập tức dỡ nhà ngay!”. Thế là bố tôi phải đi dỡ nhà. Hai gian nhà làm từ hồi ở trên ngọn Sông Đào về đến hôm nay lại phải dỡ ra để mang lên trại Hai Tô. Khi quay ra, hắn thấy tôi, hắn vừa xoa đầu tôi vừa nói bằng tiếng Việt, giọng lơ lớ: “ Ê…tí nhau…tí nhau…”. Rồi hắn vẫy mấy tên lính ngụy, ra hiệu bảo “cho tí nhau ăn với”. Một tên lính ngụy đưa cho tôi tẫm mía hắn đang tước vỏ ở trên miệng và một tên khác thì đưa cho tôi mấy múi bưởi. Hôm ấy, nhà nào đi vắng mà đóng cửa thì hắn cho quân lính đập phá cửa ra. Hắn còn cho quân lính ra đồng ách mọi việc làm đồng lại để về thực hiện lệnh dỡ nhà, dồn làng. Từ hôm đó, làng tôi và mấy làng lân cận tíu tít việc dỡ nhà, vác cây que, gồng gánh đồ đạc lên làm ở khu làng mới  trên trại Hai Tô.
Hai Tô là tên một điền chủ người làng Dâu (tên chữ là làng Cổ Châu Thượng). Nhưng ông ta không ở làng mà lập một mình một trại ở giữa cánh đồng, cách Phả Lại chừng hai cây số về phía đông nam theo đường chim bay. Thực ra dinh cơ này được xây dựng từ thời bố ông Hai Tô tức là cụ Hai Tiến. Khác hẳn với những điền chủ ở trong vùng như cụ Tổng Liêu (Nam Gián Đoài), Cụ Hậu Thang (Cổ Châu Hạ) thường xây tư dinh kín cổng cao tường ở giữa làng, ông Hai Tiến, dựa vào thế của một ông anh làm quan hai đóng trên đồn Phả Lại, và tiếp thu lối xây dựng điền trang của người Pháp, đã xây dựng trang trại ở giữa cánh đồng. Ông khoanh vùng ruộng đất của mình bằng hệ thống bờ cao, gần giống như kiểu ở đồn điền Hậu Quan của một ông chủ Pháp. Dinh cơ của ông gồm có một tòa  nhà gác hai tầng và hàng chục gian nhà ngói vừa làm kho tàng, vừa là nơi ở cho những người làm thuê…Để bảo vệ trang trại, gia đình ông trang bị mấy khẩu súng săn và nuôi một đàn chó rất dữ. Đàn chó này, có thời, đã là một nỗi khiếp sợ của những người nông dân làm ruộng xung quanh. Không ít người đã tìm cách bán lại ruộng đất cho ông  để đi mua nơi khác. Nhưng người ta càng muốn lảng xa ông thì trang trại của ông lại càng mở rộng.
Ông Hai Tô chỉ là người kế thừa thuộc thế hệ thứ hai. Người ông ta cao ráo, trắng trẻo, cũng tầm tuổi bố tôi hoặc hơn chút ít. Ông ta có hai vợ. Bà vợ đầu chỉ sinh được một con trai. Còn bà vợ hai thì vừa mắn đẻ lại đẻ nhiều. Bà sinh hạ cho ông chẵn chục người con cả trai lẫn gái. Trong số đó có hai người Nguyễn Văn Toản và Nguyễn Văn Thao là bạn học cũ của tôi từ thời tiểu học. Nguyễn Văn Toản người thấp bé nhẹ nhàng chắc là giống mẹ. Còn Nguyễn văn Thao dáng cao lớn hao hao như bố nhưng mặt bị rỗ nhằng rỗ nhịt, hậu quả của bệnh dịch đậu mùa năm 1947. Tính Thao láu táu và hơi hiếu thắng. Tranh cãi với hắn điều gì thì hắn vung tay vung chân cãi lại rất hăng. Người con gái lớn-nhưng là đốt thứ tư của bà hai-sau này trở thành em dâu cháu chú cháu bác với tôi. Thím ấy hơn tôi hai tuổi, người nhỏ nhắn, tính dịu dàng nhẫn nhịn, nói năng lại nhỏ nhẹ nên trong họ, ngoài làng ai cũng khen là một nàng dâu thảo. Có điều suốt trong thời chiến tranh chống Mỹ, chồng biền biệt trong chiến trường xa, mình thím ấy ở nhà nuôi mẹ già, con thơ nên kinh tế gia đình lúc nào cũng bần bách. Ngoài theo công điểm với hợp tác xã, thím ấy cứ phải xoay xỏa tìm việc làm thêm. Giữa thời người ta cấm đoán mọi chuyện làm ăn buôn bán tư nhân, thím ấy vẫn tìm ra một nghề cũng khá khôn ngoan: buôn chuối. Cứ mua chuối xanh của người ta về đem dấm chín rồi lại gánh ra chợ bán, xem như là bán của nhà. Dần dà thành quen, thành “phân công lao động động xã hội”. Ai có chuối cũng cứ gọi đến thím. Và thím ấy cũng tự nhiên thành một bà “nái chuối” chuyên nghiệp. Tôi là người ít về làng, càng ít có dịp về qua nhà thím, nên lần nào thấy anh, là thím ấy cũng cứ khoắn khỏa mời cho bằng được. Lần nào vào cũng thấy trong một góc nhà lỏng chỏng ngổn ngang bày la liệt những nải chuối, chín có, xanh có. Lần gần đây nhất vẫn thế. Tôi hỏi: “Thế thím vẫn còn làm nghề này hay sao?”. Thím ấy trả lời: “ Vâng, em vẫn làm đấy bác ạ. Cứ ai gọi bán thì em lại mua”. Tôi hỏi thăm về Toản, về Thao, hai người bạn học cũ chưa từng gặp lại và được biết Toản bây giờ lập nghiệp mãi trên Lục Ngạn, còn Thao thì đã hy sinh từ năm 1972.
Ông Hai Tô là người chơi súng săn và cũng rất hay khoác súng  xuống đồng làng tôi săn bắn. Ngày ấy chim chóc còn nhiều. Ở những cánh đồng trũng thỉnh thoảng vẫn có những đàn vịt giời, vịt le… đông đúc xà xuống kiếm ăn. Ông thường tìm cách tiếp cận những đàn chim ấy. Khi đã vừa tầm bắn, ông thường nổ liền hai phát súng. Phát thứ nhất nhằm vào đàn chim đang bơi. Phát thứ hai nhằm vào đàn chim khi vừa cất cánh. Đạn là đạn ghém. Mỗi viên có hàng trăm mảnh chì, mảnh gang nhỏ nhôi ở bên trong. Chùm sát thương của mỗi viên rộng như cái sàng, cái nia ấy.Cho nên chỉ với hai phát đạn, ông đã có một xách nặng “chiến lợi phẩm” đem về. Nhưng người ta thán phục ông hơn cả là về cái việc ông đã bắt sống được chim bồ nông mà người vùng tôi hay gọi là chim lềnh đềnh. Bồ nông là một loài chim to khỏe, thường đi ăn lẻ từng con một, rất ít khi thấy đi ăn đôi. Ở làng Vĩnh Trụ có một cặp vợ chồng nhà nọ khênh đôi lợn sang bán bên chợ Rồng (Nam Sách). Tiền đút cả vào ruột tượng. Non Trưa về đến đồng làng thấy một con bồ nông ai bắn bị thương cứ chập choạng định bay lên mà không bay được, liền chạy ra vồ. Vồ được, nhưng lại không kiếm đâu ra dây trói, bèn lấy luôn cái ruột tượng trói chân nó lại rồi treo lên đầu đòn gánh mếch ở sau lưng. Đi được một quãng thì chim bồ nông bất đồ lại vỗ cánh bay lên, tha luôn cả cái ruột tượng đi theo. Người đàn ông chưng hửng, buột miệng: “ Ôi thôi...! Thế là toi…!”. Còn người đàn bà thì tiếc của quá, vừa dậm chân vừa kêu khóc: “ Ới làng nước ơi, chim bồ nông nó tha mất đôi lợn của tôi rồi, giời đất ơi…!”. Còn có một người làng Chin thấy một con bồ nông ăn rất gan ở gần ruộng nhà mình thì nghĩ bụng “chắc là bắt sống được”. Thế là ông ta lội xuống đội bèo, giả vờ làm một đám bèo trôi tiến lại gần chim bồ nông. Con chim bồ nông cũng từ từ bơi lại, đang định đưa cái mỏ to như cổ tay, quăm quắm nhọn như múi giáo bổ xuống đám bèo thì ông ta sợ quá bèn đứng òa lên ù té chạy. Con bồ nông cũng hoảng quá, quay ngoắt ngay lại vừa kêu quang quác vừa chạy xé nước một đoạn dài rồi mới cất cánh lên được. Thế là người sợ chim, chim sợ người, hai bên cùng chạy. Nhưng ông Hai Tô thì không thế. Ông cũng đội bèo tiến lại gần chim bồ nông. Rồi ông túm cẳng chim bồ nông, kéo nó xuống nước, quần nhau với nó ở dưới nước, vặn cổ, bẻ cánh nó cho đến khi bồ nông đuối sức ông mới cầm cẳng xách lên. Lúc ấy thì bồ nông không thể bay, cũng không thể mổ lại ông được nữa.
Cái trại Hai Tô một mình chơ vơ giữa cánh đồng, vừa ngang tàng vừa thách thức thế, mà lại rất an toàn. Trước cách mạng tháng Tám 1945, hầu hết các nhà giầu kín cổng cao tường ở giữa làng giữa xóm lại rất hay bị bọn giặc cướp đến “hỏi thăm”. Riêng trại Hai Tô thì không dám. Đơn giản vì một lẽ giặc cướp không thể tiếp cận được. Đến thời kỳ “Tiêu thổ kháng chiến”, cả thị trấn Phả lại đều bị phá, dinh cơ Cụ Hậu làng tôi cũng bị phá. Riêng trại Hai Tô thì vẫn cứ nguyên vẹn. Lý do đơn giản cũng chỉ vì nó chơ vơ trống trải, không có dân, lại gần đồn Phả Lại nên Tây cũng chẳng xuống đó đóng làm gì.  Mà Tây không đóng thì ta cũng chẳng phí công, phí sức mà đi phá. Với lại gần đồn Tây thế phá bằng cách nào để không lộ được? Mãi đến năm 1949, người Tây mới nẩy ra cái ý tưởng xây dựng nơi đây thành một trại tập trung. Dinh cơ của ông hai Tô cũ nay thành nơi để cho sếp Tây và lính ngụy đóng đồn. Đằng sau đồn để một bãi đất rộng làm nơi tập tành cho nghĩa dũng, nơi tập trung dân chúng mỗi khi có “quan lớn” về hiểu dụ. Chúng tôi có được dự một lần quan Tây về hiểu dụ, sau đó phát thuốc và chủng đậu cho bọn trẻ con chúng tôi. Có đâu hai cái bàn phủ ga trắng. Trên bàn để khay, panh, kéo, kim tiêm, bông băng, thuốc đỏ…Bọn trẻ con chúng tôi đứa nào cũng vén ống tay  lên đến tận vai, xúm xít xung quanh chờ đến lượt chủng đậu. Đồn binh và khu đất rộng ấy là trung tâm của trại tập trung. Bốn góc đồn là  dân của bốn làng bị dồn lên đây ở. Vây kín bốn xung quanh trại tập trung là hai lớp rào chéo mắt cáo bằng tre, bằng nứa. Mỗi làng có một cổng đi riêng. Rào hai lớp nên cổng cũng có hai cổng: cổng trong và cổng ngoài. Cổng cũng là cổng tre, có một cán cổng ở giữa. khi mở thì chống cổng lên, khi đóng thì hạ cổng xuống, kéo cán cổng vào phía trong. Cuối cán cổng đục một lỗ tròn để lùa con sỏ chốt chặt vào với cọc chốt cổng. Bên cạnh cổng trong làng nào cũng có ba gian điếm canh. Làng tôi ở góc phía tây nam đồn. Cổng hướng về phía làng Phao Tân. Nhà tôi ở ngay cạnh điếm canh của làng. Bố tôi làm chỉ có một gian và mở cửa dọc nhìn ra phía nhà thờ Tu Linh. Lý do phải mở cửa dọc chỉ là vì nhà làm tạm bợ, vội vàng, chân tường và bức vách để thấp nên không đủ độ cao mở cửa ngang được.
Dân sống trong trại tâp trung này gặp rất nhiều phiền toái. Thứ nhất là đi làm đồng rất xa. Từ trại Hai Tô về làng tôi phải đi bộ đến ba cây số. Thời gian đi lại mất nhiều, chưa kể buổi chiều lại phải về sớm để kịp giờ “đóng cổng trại”. Đó là lý do nhiều đàn ông làng tôi cứ trốn trại ở lại làng. Có lẽ biết vậy nên đêm nào móoc chiê (đạn cối) trên đồn Phả Lại cũng cầm canh bắn xuống các làng. Ở trong trại Hai Tô tối tối chúng tôi vẫn thường nghe thấy tiếng đạn bay rè rè qua đầu, rồi lâu lâu mới nghe tiếng ình ình ở dưới làng xa. Cũng đôi lần tôi về làng. Cảnh làng hoang vắng và trống trải lắm. Những bụi tre làng bị  đạn moóc chiê vặn tơi tướp rũ rượi cả xuống đường làng. Những sân gạch bị trúng đạn vỡ tung tóe lên thành những hố sâu. Hai cây táo sau chùa quả sai lủng liểng mà không có người vặt. Cây táo xoan cao lắm tôi không dám trèo. Chỉ có cây táo bột,  thân nó nghiêng nghiêng ngả ngả tôi mới dám trèo lên hái vội mấy chùm thâm thấp quả sai lúc lỉu. Những quả táo tròn to bắng cái chén hạt mít, đã chín trắng, bỏ vào miệng ăn những bột là bột…Xóm tôi, tôi chỉ biết có bác Trương Hương là ở nhà thôi. Bác biến cái ụ  tròn tròn, trước đây vẫn để bục thóc lên trên, thành nhà ở kiêm luôn hầm trú ẩn. Bốn xung quanh là tường đất đắp dầy. Bên trong là một “tăng xê” đặt vừa một cái chõng tre và một khoảng trống con con để đồ vặt: đèn, điếu, ấm nước…Có hai cửa tò vò thông nhau để ra vào, lên xuống cho tiện. Bên trên hầm nhà được chát kín bằng bùn rơm. Trên lớp bùn rơm, bác vẫn đội cho nó một “cái nón” to bằng cái nong, khung tre, lợp rạ để tránh thấm nước xuống hầm nhà. Đó là một ngôi nhà tròn duy nhất tôi thấy ở làng tôi. Ngôi nhà tròn này tồn tại khá lâu. Mãi đến năm 1958, nó còn được tu sửa chỉnh trang để làm “phòng hạnh phúc” cho vợ chồng bác Thi. Bác Thi tuy lấy vợ sớm, từ năm 1953, nhưng sau đó “bác giai” đi thanh niên xung phong mở đường vào chiến dịch Điện Biên. Đến năm 1958 thì xin phục viên và hai vợ chồng mới “tái tân hôn” trong cái ngôi nhà tròn độc đáo này.
Bất tiện thư hai là thiếu nước. Trước đây ở làng chỉ vài bước chân là ra đến cầu ao. Nay lên ở trại chơ vơ giữa cánh đồng khô hanh không kiếm đâu ra nước. Chiều nào bố tôi cũng phải dắt tôi đi hàng cây số ngược lên đến gần làng Phao Tân mới có ao, có ngòi để rửa ráy và gánh nước về ăn. Bố tôi gánh nước bằng hai cái ang sành nhũng nhẵng đi trước. Tôi thất thểu theo sau. Những buổi chiều mùa đông hanh heo và sương giá. Chân tôi mỏi rời mỏi rã mà những vết nẻ răm, nẻ miếng trên mu bàn chân, đằng sau gót chân, thấm lạnh, thấm nước lại càng lốt nhốt đau. Vậy mà nhiều khi tôi vẫn phải chạy gằn theo bố để kịp giờ về trại. Bởi ở trại, chiều nào lính ngụy và nghĩa dũng trong đồn cũng ra điếm canh. Đầu tiên họ dóng một hồi kẻng báo rõ dài. Ý muốn nhắc nhở mọi người ai chưa vào trại thì hãy khẩn trương. Đến giờ thì họ sập cổng xuống. Ở cổng ngoài họ còn gắn thêm một quả mìn muỗi.
Buổi tối ở trên trại buồn lắm. Trẻ con không có chỗ tập trung để nô đùa như ở dưới làng. Nhà tôi lại làm độc lập ở gần điếm canh và nhìn đi một hướng. Các nhà khác thường làm thành dãy và nhìn cả về khu trung tâm. Hàng xóm gần gũi với nhà tôi chỉ có hai nhà là gia đình bà Ngọc và gia đình ông Trương Tự. Nhà họ làm ngay đằng sau nhà tôi và cùng hướng với nhà tôi. Nhưng hai nhà ấy đều không có trẻ con. Gia đình bà Ngọc chỉ còn bà và hai người con lớn là anh Ngà và cô Khiêm. Cô Khiêm đã đi lấy chồng nhưng chê chồng nên lại về nhà ở. Anh Ngà  thì nghe đồn đâu đang “mê” chị Ái, con gái thứ hai bác Lý Tín nhà tôi. Ban ngày, tôi chẳng thấy mặt họ đâu. Nhưng buổi tối thì thỉnh thoảng tôi cũng bắt gặp họ đứng với nhau ở đầu nhà. Hai người đứng đối diện nhau, tay vân vê như đang mân mó một vật gì, miệng lầm rầm nói chuyện và thỉnh thoảng thì lại khúc khích cười. Còn bà Ngọc thì người làng tôi mệnh danh cho bà là Bà Vú, bởi vì bà chuyên đi đỡ đẻ giúp cho mọi người trong làng. Không có ca đẻ nào bình thường ở làng mà lại không phải gọi đến bà. Cho nên cái danh hiệu “Bà Vú” mà người làng tôi phong tặng cho bà gói ghém cả lòng quý mến và biết ơn. Hàng năm, cứ đến tết “ Ông thày, bà cốt” (mồng 5 tháng 5 âm lịch) là người làng tôi kẻ ít người nhiều đều có một chút quà nhỏ: cân đường, cân mứt, cân cam, nải quả hoặc con gà…đến biếu Bà Vú.
Gia đình ông Trương Tự cũng chỉ có ba người: hai ông bà và người con trai út tên là Sơ. Anh Sơ chỉ hơn tôi vài tuổi nhưng tôi cũng chẳng thấy mặt mũi anh đâu. Ông Trương Tự thì đang đau bệnh nặng. Ông mắc căn bệnh gọi là “Lên đầu gối ông voi”. Hai đầu gối cứ sưng to lên và một thời gian sau thì ông mất. Bà Trương Tự người thấp đậm và lặng lẽ như một cái bóng. Tôi không thấy bà ấy cười nói bao giờ. Bà ấy thường mặc một cái váy đụp rất lôi thôi và cũ kỹ, cái áo cánh nâu cũng đã bạc trắng, đội cái nón chóp che gần như kín mặt, quảy đôi quang sọt lên Phả Lại nhặt phân. Ai mua thì bà ấy lại gánh ra tận ruộng vãi cho. Ngày ấy chưa phổ biến dùng phân hóa học như bây giờ. Chỉ dùng phân chuồng (phân trâu, phân lợn trộn với mùn rác độn chuồng lợn) là chính. Phân bắc (phân người) đã được xem là “thức ăn cao cấp” của lúa rồi. Các lão nông làng tôi đánh giá cao phân bắc lắm. Họ bảo: “Dùng cái anh phân bắc này, vụ sau làm đất tuy có nặng tay một chút nhưng tốt bền và chắc hạt”. Họ cũng truyền tụng nhau một câu chuyện rằng các ông chủ Pháp ngày trước cũng quý cái món này. Có những thương lái đã đi mua gom từng thuyền đầy phân bắc về để bán lại cho người Pháp. Những ông chủ Pháp thường ăn mặc rất lịch sự: com lê trắng, mũ phớt trắng. Ấy vậy mà sẵn sàng sắn ống tay áo lên, thục ngay xuống thuyền phân bới lộn lên xem có lẫn giấy, lẫn giẻ hay không. Mua về, họ đem trộn thêm với đất thó, cán mỏng ra đem phơi khô rồi mới đóng bao đem về tận bên Pháp để trồng trọt.
Thời ấy “Nền văn minh toa lét” còn nằm mãi bên Tây. Người Việt Nam còn đang tôn thờ “Chủ nghĩa ỉa đồng”: “ Thứ nhất quận công, Thứ nhì ỉa đồng” kia mà. Ngồi chuồng do vừa bẩn vừa thối, mũi cứ phải chun lại đến ngạt thở. Còn ngồi ngoài đồng, chao ôi là thoáng mát, chẳng có con ruồi con nhặng nào vo ve quấy nhiễu, bao nhiêu thứ mùi khó chịu lại nhờ gió xua đi cả. Ai cũng nghĩ vậy thôi, chứ thật ra ở những cánh đồng, bãi đất  dìa phố chợ hoặc bên trại lính, giấy lộn vứt ngổn ngang, phân người cũng nằm ngồi la liệt. Ruồi nhặng và ròi bọ cũng tởm lợm lắm. Nhưng đó lại là nguồn nguyên liệu cho bà Trương Tự khai thác. Sáng bà đi là trưa về có một gánh. Quá trưa bà đi  thì chiều về lại thêm gánh nữa. Tôi thấy ngày nào bà ấy cũng lầm lũi và kiên nhẫn làm như thế.
Không biết ai loan tin, nhưng có một buổi chiều, người làng tôi nhốn nháo ra cổng trại để xem quân Tầu Tưởng chạy loạn. Chúng tôi cũng theo ra. Nhìn lên đường 17, chỉ thấy lố nhố  một đoàn quân đi. Bắt đầu xuất hiện từ Phả Lại rồi cứ kéo dài dần ra. Đường đê thì cao, nền trời thì trắng, từ xa nhìn lên tôi chỉ thấy những bóng người đen đen lầm lũi nối đuôi nhau, dài mãi, dài mãi…Lúc ấy tôi chưa hiểu là họ chạy loạn gì. Chỉ sau này học sử thì mới biết đó là lúc quân Tầu Tưởng thua quân Tầu Mao. Đây là đoàn quân họ rút chạy qua đường Việt Nam. Lại một buổi sáng, chừng nửa buổi, nghe tiếng súng nổ đì đẹt phía quán Hàng Bà Nhất. Lúc sau thì thấy lính ngụy và nghĩa dũng vác súng ra phục kín phía bờ rào nhắm bắn về phía tiếng súng nổ. Người làng tôi cũng lố nhố đứng ra xem. Bọn trẻ con thì chỉ thập thò định chạy ra lấy “cát tút” (vỏ đạn) làm đồ chơi, nhưng người lớn không cho ra. Đó là trận ta đánh độn thổ trên đường 17, lính Hai Tô phải ra bắn yểm trợ.
Sau đó chỉ vài hôm thì bố tôi đem tôi gửi sang bên ngoại. Giữa buổi trưa một ngày mùa đông nắng đẹp, bố tôi cho tôi cưỡi một con nghé đực, rồi bố tôi dắt nghé đi trước, tôi cưỡi nghé theo sau. Từ cổng trại Hai Tô đi tắt đồng lên đê Lý Dương. Từ Lý Dương  theo đường nhựa đến Hàng Bà Nhất. Đến đây bố tôi lại cho đi tắt cánh đồng bãi làng Chí Linh để ra bờ sông Kinh Thày đoạn ngang làng Ninh Xá. Ngày ấy làng Chí Linh còn ở ngoài đê, chưa đắp đê bối khoanh vùng lại như ngày nay. Về mùa lũ cánh đồng bãi làng Chí Linh nước ngập trắng băng. Ngọn nước sông Lục Đầu và ngọn nước sông Đuống đến đây thì bị tòe ra, dòng nước chảy chậm lại. Làng Ninh Xá cũng vì thế mà trở thành một cái túi để hứng phù sa bồi tụ. Cho nên phần ngoài đê làng Ninh Xá còn có một bãi bồi rộng lắm. Người ta còn tân tre, trồng mây, trồng cây ăn quả, trồng rau mầu, có thời kỳ còn làm cả bãi họp chợ nữa. Mỗi nhà cũng thường có một chiếc “cầu sông” để rửa ráy, tắm giặt, và kín nước về ăn. Ở những “cầu sông” ấy cũng thường hay có người. Bố tôi gọi với qua sông nhờ một người đang đi gánh nước về nhắn tin hộ. Một lát sau thì bác Cương tôi đưa thuyền sang đón. Trâu nghé làng tôi bơi nước đã quen nên việc đưa con nghé qua sông cũng rất dễ dàng. Chỉ cần buộc thừng vào thuyền, bơi thuyền đi là nó ngoan ngoãn bơi theo. Sông nước mùa đông cạn dòng nên chỉ một loáng đã sang bờ bên kia.
Ông ngoại tôi năm ấy đã gần sáu mươi tuổi, dáng người cao cao, lưng hơi còng, mái đầu và bộ râu ba chòm đã bạc trắng như cước. Bà ngoại tôi sinh được bảy người con: bốn trai, ba gái. Bốn trai là Cương, Dũng, Lược và cậu út Mão (vì sinh năm Mão 1927). Ba người con gái là: Chải, Chuốt, Rẽ. Mẹ tôi là Chuốt. Nhưng vì trùng tên với một người làng, người ta đến xin tên, ông tôi mới đổi tên gọi là Nhỡ. Bá Chải lấy chồng người làng Trần Xá tên là Đồng nên tôi gọi là bá Đồng. Bá Đồng sinh được hai con: một trai, một gái rồi cũng mất vì bệnh hậu sản trước mẹ tôi mấy năm. Dì Rẽ lấy chồng làng sinh con trai đầu lòng tên Thiều nên tôi gọi là dì Thiều. Bà ngoại tôi mất từ năm 1930, lúc đó mẹ tôi mới mười một tuổi và cậu Mão mới ở tuổi thứ tư. Ông ngoại tôi sau đó cũng “đi bước nữa”, lấy “ Bà Trẻ” và sinh thêm được hai người nữa là dì Cún Hai và cậu Mạch. Tôi, Thiều và cậu Mạch bằng tuổi nhau. Bốn gia đình: bác Cương, bác Dũng, bác Lược và Bà Trẻ đều ở liền nhà nhau. Đặc biệt hai nhà bác Cương và gia đình Bà Trẻ  còn liền cả sân nhau và nhìn đối diện vào nhau nữa. Nhưng lúc đó thì ông tôi đã ở với gia đình bác Cương và mọi công việc cúng giỗ tổ tiên ông bà…đã giao cả cho con trai trưởng. Nhà ông ngoại tôi lúc đó có hai người đi kháng chiến không có mặt ở nhà là cậu Mão và anh Đoàn ( tên bố mẹ đặt là Chắc) con giai trưởng của bác Cương.
Hai chú cháu cũng tầm bằng tuổi nhau. Chú đi bộ đội được một thời gian thì lở ghẻ đầy người, liệt vào hạng bệnh binh cho thoái ngũ. Nhờ có trình độ văn hóa lớp 5 thời ấy nên được tuyển đi dạy học mãi trên Dương Hưu, Vĩ Loại, Sơn Động, Bắc Giang. Cháu đi bộ đội, bị thương, trở về hoạt động cơ sở ngay trong xã. Thời mất đất phải vượt sông Kinh Thày sang trọ ở làng tôi hoạt động. Run rủi thế nào lại lấy cô em gái con ông chú tôi làm vợ. Đó là cô Hải con gái cả chú Hội Mậu nhà tôi. Ông này gan như cóc tía. Nhà ngay cạnh đồn địch thế mà đôi lần vào buổi tối, cũng lần về thăm nhà. Ông tôi biết là lại hốt hoảng vội đi nhắc các con  lo cảnh giới. Còn mẹ anh thì vội kéo anh vào trong buồng, rì rầm vài câu, dúi cho con ít tiền, rồi vội tống đi ngay: “ Lần sau, cấm chỉ về con nhé! Mày về, tao lo lắm!”. Ông chú, ngược lại nhát như cáy ngày. Sau lần chúng cho quây nhà tôi, cuôc hầm bắt hụt, cứ ở tịt trong vùng tự do, không dám bén mảng về nữa. Lần ấy, bố tôi cũng rầy rà lây. Chúng bắt bố tôi ra tra hỏi: “ Mày dấu hai tên Kham -Mão ở đâu thì phải thành thật khai ra. Nếu không thì rũ tù!”. (Kham là một người anh khác của tôi cũng người làng Ninh Xá) Bố tôi người run như cầy sấy cứ sự thật mà khai: “Bẩm quan lớn, mấy hôm trước hai tên ấy có qua đây thăm nhà tôi thật. Nhưng không gặp chị, gặp cô chúng nó lại đi ngay. Hiện giờ thì tôi không biết chúng ở đâu cả. Quan lớn không tin thì cứ việc đi khám xét. Chúng cho quân lính đi sục hầm và đào cuốc linh tinh cả. Nhưng cũng không tìm được hai tên Kham-Mão thật. Vậy mà chúng vẫn bắt bố tôi sang đồn Ninh Xá. Bố tôi cõng tôi ở trên lưng theo bọn lính áp tải sang đồn Ninh Xá. Đến đồn chúng giữ bố tôi lại còn giả tôi về nhà ngoại. Mẹ tôi đang chơi bên nhà ngoại, thấy chồng bị bắt thìchỉ ôm tôi mếu máo khóc.Còn ông tôi thì lo quýnh lên, vội họp các bác tôi lại hội ý, bàn cách chạy chọt lo lót để “gỡ” bố tôi ra. Ông tôi bảo mẹ tôi và các bác phải lo nhanh lên, nếu để nó giải xuống huyện là rắc rối đấy. Không hiểu mẹ tôi và các bác lo lót thế nào mà chỉ vài hôm sau là bố tôi được thả ra ngay.
Ở bên ngoại ban ngày thì rất vui, vì tôi sẵn bạn chơi. Nhất là ba cậu cháu tôi bằng tuổi nhau lại gần nhà nên rất hay đàn đúm rủ nhau đi chơi. Ở bờ đê làng Ninh Xá lúc đó còn có một thứ cây gọi là cây bọ mò có hoa nở đỏ rất đẹp. Chúng tôi thường lấy hoa làm đồ chơi, lấy lá làm đồ vày nghịch: đem làm cac loại bánh hoặc trộn với bột đất, bột gạch non để chế biến các loại thuốc…Nhưng ông tôi thấy thì ông tôi dẹp ngay vì sợ bọ mò rúc vào người sinh lở ghẻ. Ông tôi cũng lại sợ chúng tôi lên bờ đê không may bị  xe cộ kẹp, sợ chúng tôi ra bờ sông chơi không may chết đuối…Vì thế cứ thấy vắng bóng chúng tôi là ông tôi lại vội đi tìm. Ông tôi thường lững thứng lên đê, tay cầm cái quạt giấy che đầu, mắt dò tìm các hướng. Hễ thấy chúng tôi đâu là ông tôi lại lập tức gọi về ngay. Làng Ninh Xá gần chợ Nành. Chợ Nành trước đây họp ở vị trí giữa làng Ngô Đồng và làng Ninh Xá. Nhưng thời tạm chiếm, để ngăn quân du kích lợi dụng chợ làm địa bàn hoạt động, nên quan Tây kéo chợ về họp ngay ở bãi bồi ngoài đê làng Ninh Xá. Bãi bồi này khá rộng. Hai đầu chợ còn có hai cây thị to lắm. Họp chợ ở đây vừa gần đồn lính lại vừa gần sông, nhu cầu mua bán trao đổi nhiều,  ngoài các phiên chính như trước, còn đẻ thêm những phiên sép, nên chợ Nành gần như có thường xuyên. Cũng nhờ lộc chợ Nành mà tôi  hay được các bác, các dì, các mợ, các chị….mua quà về cho ăn nên hầu như lúc nào cũng ướt mép.
Nhưng tối đến là tôi lại nhớ nhà. Từ ngày mất mẹ tôi đã quen quấn bố. Đi đâu cũng bố, trừ có việc đi làm. Khi thì bám quần bố, lúc thì trên lưng bố. Bây giờ xa bố, tôi thành bâng khuâng. Tối nào tôi cũng khóc đòi về. Mà hồi ấy tự nhiên tôi lại rất thèm hơi ấm phụ nữ. Tôi chỉ đòi ngủ với các chị, các cô gái trẻ, chứ không chịu ngủ với ông, với bác. Có một lần, tôi đang ngủ với mấy chị thì bác Dũng thức tôi dậy bảo sang giường ngủ với bác. Thế là tôi hờn. Tôi cứ ngồi trên cái phản giữa nhà khóc gào bố, gào mẹ: “Ới bố ơi, bố sang đón con! Ới mẹ ơi, mẹ về bế con!”. Tiếng khóc ấy của tôi hình như cứa vào lòng thương em, thương cháu của bác Dũng. Mặt mày bác Dũng tự nhiên méo sệch đi, run rẩy rồi dàn dụa nước mắt. Bác khóc nức nở và phải dùng cả cánh tay áo đưa lên gạt nước mắt. Thế là tôi lại được ngủ với các chị như cũ. Tôi nắm giữa các chị, Tuy chỉ đắp chiếu thôi mà tôi thấy một hơi ấm nóng bao trùm lên khắp người tôi. Tôi thổn thức thêm một lúc rồi ngủ đi lúc nào không biết. Sáng hôm sau thì tôi vẫn thấy mình nằm trên giường bác Dũng.
Vài tháng sau thì nghe tin ta phá trại Hai tô rồi. Vào một đêm sương mù dày đặc. Ta gài được tay trong mở cổng đồn cho quân du kích vào đánh úp. Bọn nghĩa dũng thì  đầu hàng ngay. Còn mấy tên sếp ngụy cố thủ trên nhà gác cũng bị quân ta đột nhập tiêu diệt. Dân các làng được dịp, chỉ vơ vội những thứ cần thiết, dắt cưỡi trâu bò chạy vội về làng. Trại Hai Tô lại thành một trại trống không. Giữa thời loạn lạc đạn bom cũng không ai lên đấy làm gì. Nó cứ phơi mưa, phơi nắng và tự lụi tàn. Riêng khu nhà xây, tư dinh cũ của nhà Hai Tô thì mãi đến những năm cải cách, nông dân nàng Dâu mới lên phá phách và đào bới đến viên gạch cuối cùng.
                                                                      27/3/2011


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...