Thứ Ba, 7 tháng 12, 2010

LAN MAN CHUYỆN LÀNG TÔI (2)


                    Cụ Hậu-Cụ Hội Thỉnh

Hồi đầu kháng chiến, có một lần giặc Pháp đi càn qua làng tôi. Chúng đóng quân lại một đêm trong khu nhà ngói ở giữa làng. Đó là khu nhà của cụ Hậu. “Hậu” chỉ là một chức mua của làng còn tên thật cụ là Đỗ Thị Thang, chị ruột của ông nội tôi. Nhưng khi tôi lớn lên thì các cụ đã “đi” cả rồi, nên những chuyện về các cụ tôi chỉ còn được nghe “hóng hớt” qua những cuộc chuyện trò giữa bố tôi với các bác, các chú, hoặc với những người bạn cày, bạn thợ. Qua những câu chuyện nghe ‘hóng hớt” được ấy, đại khái tôi hiểu rắng cụ Hậu là một người giầu nhất làng tôi. Cụ có đến năm mươi mẫu ruộng. Cụ cũng có lấy một đời chồng, gọi là cụ Nhất (do đỗ đầu một khoa thi hương nào đó mà có cái danh xưng này). Nghe nói cụ Nhất   quê ở vùng Gia Lộc, cũng là một đấng mày râu “phong tình có hạng”. Cụ đã từng có khá nhiều vợ, nhiều con ở các vùng quê khác. Thế mà không hiểu sao, đoạn cuối đời cụ lại bén duyên với “cô Thang” làng tôi và sống ở đấy cho đến trót đời. Không ai nhớ và kể về câu chuyện tình của họ. Người ta chỉ kể lại loáng thoáng về cuộc sống  cao sang, đài các của “cặp uyên ương” ấy ở làng tôi thôi: cơm thì toàn những tám xoan, gạo dự, thổi bằng một loại niêu đất chỉ to bằng chiếc gáo dừa. Thức ăn mặn thì giò rim, tôm rang, cá kho…và chúng đều được tẩm ướp, kho rang rất công phu kỹ lưỡng. Các món canh, món nấu cho đến hoa quả ăn tráng miệng cũng vậy. Tuy hai ông bà ăn ít thôi nhưng phải thơm ngon, tinh khiết và hợp khẩu vị. Chẳng hạn: chuối phải là chuối chín trứng cuốc, hồng  phải là thứ hồng chín đỏ và thật nhừ, đặc biệt là na thì phải chọn những quả to, chín mềm, để sẵn vào đĩa rồi dùng tăm gẩy hết mắt đi…Hai ông bà sống trong một ngôi nhà hai tầng duy nhất và cao nhất làng tôi. Phía sau là một một dinh cơ nhà ngói cây mít, sân gạch tường hoa của một trong những người con trai của cụ Nhất: ông tiên Phác. Đằng trước, phía tay phải, hướng vuông góc với ngôi nhà hai tầng  là bể hứng nước mưa đủ ăn quanh năm không cạn. Rồi đến năm gian nhà ngói chạy dài làm chỗ ở cho những người làm thuê. Kế đến là một khu nhà kho, nhà bếp có nền khá cao, chắc là để đề phòng những năm nước lớn. Dãy nhà kho nhà bếp này đối diện với ngôi nhà hai tầng  và cách ngôi nhà hai tấng  bằng một cái sân gạch, lát bằng gạch vuông Bát Tràng rộng mênh mông. Chỉ cách một con đường, và hơi chếch về phía tây nam khuôn viên này, lại là một cơ ngũ nữa: cũng nhà ngói cây mít, cũng sân gạch tường hoa, vườn bên ao trước, mênh mông thoáng đãng. Đó là dinh cơ của nhà ông Ký Đính con giai nuôi cụ Hậu (nhưng vẫn lấy họ chồng là họ Nguyễn). Ngôi  nhà ông Ký Đính tuy chỉ có một tầng nhưng cũng cao ngất nghểu y như nhà hai tầng. Bởi nó có cái nền rất cao. Trước cửa nhà để tiền sảnh. Mặt trước tiền sảnh xây tường hoa, có để ô thoáng. Hai bên xây hai bậc lên xuống trông giống như hai cái cầu thang vậy.
Nhưng không hiểu là do lấy chồng muộn hay sinh phải giờ độc đinh cô quả mà Cụ Hậu làng tôi không sinh nở được. Bao nhiêu của nả cụ vun vào xây dựng cho con chồng, rồi xây dựng cho con nuôi. Cụ còn mua Hậu làng và xây trước cho mình một khu lăng mộ trên đống Mả Bà. Đây là một khu lăng mộ xây dựng toàn bằng đá xanh: kiểu dáng rất thanh thoát mà vẫn bề thế, khá bình  dị mà vẫn hoành tráng. Giữa khu lăng là hai ngôi mộ nằm song song của hai ông bà. Phía đầu lăng  có một am đá nhỏ. Phía chân lăng để một lối đi có bậc lên xuống. Xung quanh lăng được quây dựng bằng một hàng lan can đá. Không thấy có dựng bia tạc tượng cũng không thấy có bất kỳ một ý định phô trương nào trong khu lăng mộ này.
Nhưng ngay khi giặc vừa rút đi khỏi khu nhà ngói giữa làng tôi thì lập tức một đơn vị bộ đội được cử về phá sập. Người ta chỉ để lại cho làng năm gian nhà ngói tuy không dỡ mái nhưng vẫn phá tường. Ngược lại ngôi  nhà hai tầng chỉ đánh sập được tấng, được mái nhưng lại không đánh sập được tường quây. Ngoài ra các khu khác đều thành những đống gạch vụn. Sau đó người làng tôi đi nhặt nhạnh những viên gạch lành còn sót lại xếp quây tạm tường bao và dùng ngôi nhà ngói năm gian này làm “Trụ sở”, làm “Nhà văn hóa” của làng trong suốt một thời gian dài, qua kháng chiến chống Pháp, rồi hòa bình lập lại, mãi đến cải cách ruộng đất đem chia quả thực cho nông dân  nó mới bị phá dỡ hoàn toàn.
Bước vào thời tao loạn, những con đường làng tôi, cũng không còn được tu bổ hàng năm như trước nữa. Nước ngập, rồi trâu bò đi lại nhiều, nó cuốc phá ra, lở xuống sông, xuống ao hết cả. Làng tôi bước vào thời kỳ “Trăm cái tội không bằng cái lội làng Riêng”. Nhưng không thể lội bộ mà gánh gồng chuyên chở mãi được. Người làng tôi chuyển sang đan thuyền, đan mủng để “vận tải thủy”, biến cái “khó” thành cái “thuận”. Hàng năm cứ đến mùa nước úng, người làng tôi lại thi nhau đan thuyền hoặc sắn lại thuyền. Việc đan thuyền không nhẹ nhàng như đan rổ, đan rá nên phải có một “tốp thợ” mới làm được. Vì nan thuyền to, dài và cứng nên sau khi đưa chúng vào “lóng” còn phải gõ, sảm cho chúng thật khít vào nhau. Khi đã đan xong mê thuyền, lại phải chọn một nơi đất cứng, đào lấy một cái khuôn giống như cái thuyền thật, đặt mê thuyền vào rồi dùng chân dận, vồ đập, đòn thúc, sao cho mê thuyền ăn thật khít vào khuôn đất. Khi ấy người ta mới cạp thuyền. Nhưng thuyền cạp xong cũng chưa thể hạ thủy ngay được, còn một khâu quan trọng nữa: sắn thuyền. Sắn thuyền tức là dùng một loại vật liệu đặc biệt  chát kín những kẽ nan để chống thấm nước.
Ở vùng tôi có một loại vỏ cây chuyên dùng vào việc sắn thuyền và người ta cũng gọi luôn cây đó là cây sắn thuyền. Làng tôi không sẵn loại cây này nên thường phải đi chợ Thiên, chợ Ngái mua về: băm nhỏ ra, cho vào cối đá đại, dùng chày dài đứng giã tung tơi ra như ruốc, đổ loại bột này vào lòng thuyền, dùng một loại đòn tre, có dập mềm đầu đi một chút, rồi cứ thế mà thúc, mà chà đi xát lại cho bột vỏ sắn thuyền  nhét kín vào các kẽ nan. Chất nhựa trong vỏ cây sẽ làm cho loại bột này tự kết dính lại, ngăn cho nước không ngấm được lên lòng thuyền nữa. Nhưng thực ra nó cũng chỉ làm chậm quá trình ngấm nước lại thôi, cho nên cái thuyền nào người ta cũng vẫn phải để chừa ra một khoang nhỏ gần sạp lái làm tầu tát nước. Hễ nước vào nhiều thì lại phải dùng gầu, dùng gáo múc tát nước ra.
Tôi biết được cây sắn thuyền là nhờ ở vườn sau nhà cụ Hội Thỉnh,  ngay phía trước nhà tôi có một cây sắn thuyền to lắm. Khoát của nó chắc phải già một gang tay. Đoạn thân đứng  thẳng, từ gốc đến chỗ phân chi, phân nhánh phải cao ngót ba mét. Hàng năm tôi vẫn thấy nhà ông cụ cho bóc vỏ một lần. Nhưng chỉ một thời gian sau vỏ mới lại mọc ra che kín cái thân gỗ.Tán lá cây sắn thuyền khá thon gọn. Màu lá cây sắn thuyền không xanh biếc xanh đậm mà ngả màu nhung bạc như có một lớp sương khói mỏng láng ngoài. Quả cây sắn thuyền khi chín giống như quả mồng tơi nhưng tròn hơn. Nó có vị chua chua ngòn ngọt mà bọn trẻ chúng tôi rất lấy làm khoái khẩu. Nhưng thèm là thèm vậy thôi, chứ vườn nhà ông cụ rào kín, nhà lại có chó. Nhất là cái thằng Phả, cháu nội của ông cụ, kém tôi vài tuổi, thỉnh thoảng lại tụt quần ôm áo, lon ton chạy ra gốc sắn thuyền, chìa cái mông trắng hếu của nó ra mà ị. Con chó quen rồi cũng lập tức chạy theo và nó ị đến đâu thì con chó cũng “tiêu thụ” ngay đến đó. Thành thử, nhiều khi đứng ngoài dậu, trông thấy những quả sắn thuyền rơi lấp lánh trên lá, trên cỏ mà chúng tôi vẫn không dám xé dậu chui vào bởi nhỡ ra…thì sao…?
Chỉ có cây duối ở góc vườn nhà ông cụ, ngay trước cổng nhà tôi, là nằm ngoài hàng rào và không ai giữ cả. Cây duối này cũng to. Gốc chả kém gì cây sắn thuyền nhưng giống duối không cao cây như sắn thuyền. Lá duối mép có răng cưa, mặt trên xanh biếc và nhẵn, mặt dưới xanh nhạt và nháp. Chúng tôi thường lấy lá duối, gấp mặt nhẵn vào, dùng mặt nháp để đánh trắng răng, làm đỏm. Cây duối này rất sai quả và quả chín rất rộ. Nhiều khi đến bất ngờ. Chiều hôm trước chưa thấy gì, thế mà chỉ sau một đêm, sớm hôm sau trời  hửng nắng, nhìn lên cây đã thấy vàng mọng những quả là quả. Cứ như những chùm vàng ,chuỗi ngọc treo gắn thấp thoáng ẩn hiện khắp vòm lá xanh. Quả duối to như hạt ngô, khi chín ngả mầu vàng, mọng nước, trông rất là ngon mắt, nhưng ăn thì chỉ nhan nhát ngọt không mấy thú vị. Nhất là sau những trận mưa, quả duối trông càng mọng, càng to thì ăn lại càng nhạt. Nhưng mùa nào thứ ấy, có thứ hoa quả gì mà chúng tôi không vơ vào miệng: duối, sung, vú bò, phèn đen, trà vó, rút rế…
Cơ ngơi của cụ Hội Thỉnh tuy chưa có nhà ngói cây mít nhưng đã có sân gạch tường hoa và ngôi nhà năm gian bằng gỗ xoan rất đẹp. Chính giữa vườn trước sân, có một khóm mẫu đơn hoa trắng, to như cái đống rạ lùn. Đến mùa hoa nở, trông cứ trắng đều như bát úp, thỉnh thoảng lại thấy dập dờn những cánh bướm to như cái bàn tay, màu sắc sặc sỡ, bay dạo quanh kiếm mật. Bên cạnh khóm mẫu đơn là một cái bể chứa nước. Xung quanh bể  có trồng mấy cây cau vừa tạo cảnh vườn quê lại vừa làm những cái phễu để hứng nước mưa. Hết vườn trước là đến ao trong, rồi đến ao ngoài(vì nó nằm ngoài bờ tre, giáp với cánh đồng bãi nên gọi là ao ngoài). Bên bờ ao trong, mép vườn trước, có một cây hồng, nhưng không mấy khi trông thấy quả. Chúng tôi để mắt nhiều hơn đến cái cây ổi Tầu đã đổ ngả xuống ao, một phần cành lá  của nó đã nhúng xuống cả mặt nước.
Cụ Hội Thỉnh thuộc lớp người cùng thế hệ với ông nội tôi. Nghe đâu, ông nội tôi trước đây đã từng dạm hỏi đính ước với chị gái cụ Hội Thỉnh: bà Nghiêm Thị Cách. Nhưng chưa kịp cưới xin gì thì bà Cách đã mất sớm. Sau này khi biên soạn lại gia phả của dòng họ, tôi vẫn thấy ở một bản sao chép lại trong cuốn vở học trò của chi hai (chi nhà tôi) có tên bà Nghiêm Thị cách. Có lẽ vì thế mà khi bố tôi đến tuổi lấy vợ, ông nội tôi muốn nối lại nghĩa cũ tình xưa để đi lại cho thêm gần gặn, mới định hỏi cô Nghiêm Thị Giảng, con gái cụ Hội Thỉnh cho bố tôi. Nhưng cụ Hội Thỉnh không chấp nhận với lý do:“Còn có họ, không lấy được!”. Thế là cô Giảng phải đi lấy chồng người làng Gốm, sau khi sinh được một người con trai thì lại mất vì bệnh hậu sản. Bố tôi sau này lấy mẹ tôi người bên làng Ninh Xá. Có sinh nở vài lần, nhưng nuôi được có mỗi mình tôi rồi cũng mất vì bệnh hậu sản. Số phận của hai người phụ nữ này cũng na ná giống nhau. Đó là lý do mà về sau này bố tôi thường hay than thở với những người bạn cày: “Ấy cũng tại cái số tôi nó thế. Lấy bà nào thì bà ấy cũng chê mình mà bỏ mình đi!”.
Ông Hội Thỉnh là người cáu bẳn và cố chấp. Cái giọng nói của ông cụ vừa dè dè vừa lảu nhảu gắt gỏng rất khó nghe. Không  mấy ngày mà hàng xóm không thấy tiếng ông cụ quát tháo gắt gỏng ở bên nhà.Ngày tôi còn bé, tôi cũng gặp đôi lần ông cụ sang nhà tôi chơi. Nhưng hơi tý là ông cụ cũng mắng mỏ  hoạnh họe rất to tiếng với tôi, làm tôi chẳng mấy có cảm tình với cái “lão già này”. Nhưng sau đó thì ông cụ xuống sức nhanh chóng. Tôi không còn thấy ông cụ sang nhà tôi chơi nữa. Nhưng thỉnh thoảng vẫn còn nghe thấy tiếng những cơn ho kéo dài của ông cụ. Tiếng ho cứ ngày càng nhỏ dần. Rồi ít tháng  sau, ông cụ mất vì bệnh ho lao.
Cụ bà Hội Thỉnh ngược lại rất ít tiếng, miệng luôn bỏm bẻm nhai trầu, nhưng nói câu nào nghe cũng vắt vẻo, khoảnh khoái giọng bề trên lắm. Cho nên cũng ít người gần gặn. Được cái bà cụ ăn mặc khá tươm tất, chỉnh tề: cái váy thâm đất, cái áo cánh nâu, cái khăn mỏ quạ, lúc nào cũng lành lặn sạch sẽ, chứ không lôi thôi cũ kỹ như bà cụ Chùa, bà cụ Chuột làng tôi. Bà cụ sống mãi đến thời cải cách ruộng đất, bị nông  dân truy bức đấu tố, không chịu nổi, một đêm bà cụ trốn nhà ra một cái chuôm giữa đồng trẫm mình chết. Sáng hôm sau có người làng phát hiện ra, vớt xác cụ lên thì cua đã cắp nát tai, nát mắt bà cụ rồi!
Nhà ông cụ có cả thẩy sáu người con: Thỉnh, Chư, Giảng, Đọc, Mưu, Nghệ.Trong đó có ông Thỉnh, ông Chư là con trai. Ông Chư biết nói, đi tham gia cách mạng từ ngày còn "bóng tối", mất ở xa, không thấy trở về làng. Ông Thỉnh là cả thì lại bị câm. Tuy không nói được nhưng ông Thỉnh tỏ ra rất khôn và làm thợ mộc giỏi nhất làng tôi. Khi giao tiếp với mọi người ông ta chỉ “a, á…á, á…”, “ự, ự…ự ự…” và dùng tay ra hiệu chỉ trỏ, dùng cổ gật gật, lắc lắc, cộng thêm với nét mặt nữa, để biểu hiện ý mình. Bọn trẻ chúng tôi không hiểu được ngôn ngữ của ông Thỉnh. Nói đúng ra, chúng tôi chỉ hiểu được vài từ rất bản năng và phổ biến. Chẳng hạn để chỉ đàn bà, con gái hoặc cái của đàn bà con gái mọi người thường ấn đầu ngón trỏ vào ngón giữa rồi khuỳnh ngón ra để làm biểu tượng. Ông Thỉnh làm đơn giản hơn chỉ bấm đầu ngón trỏ vào đầu ngón cái tạo ra một vòng tròn để làm biểu tượng thôi. Còn biểu tượng chỉ đàn ông, con trai hoặc cái của đàn ông, con trai thì cũng như mọi người: đó là một ngón tay trỏ. Ông Thỉnh rất hay dùng cái biểu tượng này để trêu đùa chúng tôi. Hễ thấy chúng tôi đâu là ông ấy lại lấy cái ngón trỏ, xỏ xỏ vào cái vòng tròn, hất hàm hỏi: “ Đã muốn lấy vợ chưa?”. Chúng tôi lắc đầu “chưa, chưa” là ông ta lại cười và lắc đầu không thừa nhận “Các cậu đếch trung thực!”…Ông Thỉnh cũng có vợ, có con đàng hoàng. Vợ ông Thỉnh là một người phụ nữ cũng khá gái và tính tình rất điềm đạm. Nghe bà ấy kể lại thì ông Thỉnh cũng là người khá nóng tính. Cái gì không vừa ý là cũng gắt nhặng lên, có khi còn đấm đá túi bụi rồi dùng tay hẩy hẩy đuổi cút vợ đi. Những lúc như thế, bà Thỉnh chỉ lẳng lặng chấp hành, giả vờ đi chơi bên hàng xóm. Đợi khi ông ấy đi làm thì lại mò về lo toan việc nhà, chứ chấp gì với cái ông câm.
                                                                           

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...