Bài 105
Kê Khang cầm
đài
嵇康琴臺
|
Kê Khang cầm đài
|
琴臺古跡記嵇康
|
Cầm đài cổ tích kí Kê Khang
|
人死琴亡臺亦荒
|
Nhân tử cầm vong đài diệc hoang
|
文武七絃終寂寂
|
Văn vũ 1
thất huyền chung tịch tịch
|
東西兩晉亦茫茫
|
Đông tây lưỡng Tấn 2 diệc mang mang
|
至今不朽惟童性
|
Chí kim bất hủ duy đồng tính
|
此後何人到醉鄉
|
Thử hậu hà nhân đáo túy hương
3
|
嘆息廣陵絃絕後
|
Thán tức Quảng Lăng huyền tuyệt hậu
|
琵琶新譜半胡姜
|
Tì bà tân phổ bán Hồ Khương
4
|
Dịch nghĩa: Đài gẩy đàn của Kê Khang
Sách xưa ghi "Cầm đài" là của Kê Khang
Người chết, đàn mất, đài cũng bỏ hoang
Bảy dây văn vũ cuối cùng đã im bặt
Hai nước Đông Tấn, Tây Tấn cũng mất tăm
Đến nay cái bất hủ ở ông còn lại là tính trẻ con
Sau đó ai là người đến với làng say ?
Than thở cho tiếng đàn Quảng Lăng nay đã thất truyền
Bài nhạc mới đàn tì bà, một nửa là theo điệu Hồ Khương.
Người chết, đàn mất, đài cũng bỏ hoang
Bảy dây văn vũ cuối cùng đã im bặt
Hai nước Đông Tấn, Tây Tấn cũng mất tăm
Đến nay cái bất hủ ở ông còn lại là tính trẻ con
Sau đó ai là người đến với làng say ?
Than thở cho tiếng đàn Quảng Lăng nay đã thất truyền
Bài nhạc mới đàn tì bà, một nửa là theo điệu Hồ Khương.
Dịch thơ: Đài gảy đàn
của Kê Khang
Cầm Đài ghi rõ của Kê Khang
Người chết đàn tan đài bỏ hoang
To nhỏ bẩy dây đều lặng ngắt
Đông tây hai Tấn thảy điêu tàn
Đến nay tính trẻ còn truyền miệng
Mai mốt người say hết tới làng
Than thở Quảng Lăng không kẻ gẩy
Tỳ bà khúc mới nửa theo Khương.
Đỗ Đình Tuân
(dịch thơ)
Chú thích:
*Kê Khang (233-262): tên Thúc Dạ 叔夜, người đời Tấn, ở đất Trất (nay thuộc huyện Túc, tỉnh An Huy 安徽). Dòng họ Hề, lánh nạn đến Kê Sơn, do đó tự đặt hiệu là Kê Khang. Ông là một trong "Trúc Lâm thất hiền" 竹林七賢. Sau bị Tư Mã Chiêu 司馬昭 giết. Khi lâm hình ông vẫn ung dung gảy khúc Quảng Lăng tán 廣陵散. Ðàn xong nói: "Có kẻ xin học bài này, ta không dạy, thế là từ đây không ai còn đàn bài Quảng Lăng này nữa". Truyện Kiều có câu: "Kê Khang này khúc Quảng Lăng, Một rằng Lưu thủy hai rằng Hành Vân".
**Cầm đài: chỗ Kê Khang đánh đàn. Truyện Kiều có câu: "Rằng nghe nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ".
*Kê Khang (233-262): tên Thúc Dạ 叔夜, người đời Tấn, ở đất Trất (nay thuộc huyện Túc, tỉnh An Huy 安徽). Dòng họ Hề, lánh nạn đến Kê Sơn, do đó tự đặt hiệu là Kê Khang. Ông là một trong "Trúc Lâm thất hiền" 竹林七賢. Sau bị Tư Mã Chiêu 司馬昭 giết. Khi lâm hình ông vẫn ung dung gảy khúc Quảng Lăng tán 廣陵散. Ðàn xong nói: "Có kẻ xin học bài này, ta không dạy, thế là từ đây không ai còn đàn bài Quảng Lăng này nữa". Truyện Kiều có câu: "Kê Khang này khúc Quảng Lăng, Một rằng Lưu thủy hai rằng Hành Vân".
**Cầm đài: chỗ Kê Khang đánh đàn. Truyện Kiều có câu: "Rằng nghe nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ".
1. Dây đàn. Vũ là dây to, văn là dây nhỏ. Truyện Kiều
có câu: "So dần dây vũ dây văn, Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương".
2. Tức Ðông Tấn và Tây Tấn
3. Làng say. Kê Khang là bạn thân với Lưu Linh 劉伶, tác giả bài Tửu đức tụng
酒德訟.
4. Người Hồ, ở miền tây bắc Trung Quốc.
28/7/2014
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét