Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013

Chí Linh phong vật chí (8)



                               NÚI PHƯỢNG HOÀNG

Phượng Hoàng Kinh Bắc danh sơn cổ
Kiệt đặc kiếm lại kinh kỷ độ
Chúng phong triêu hướng tượng tinh la
Lưỡng tý thương khai hình phượng vũ
Tử cực cung trung nguyệt nhất luân
Lưu Quang điện hạ tùng thiên thụ
Miết trì, châu tỉnh, Lệ Kỳ am
Huyền Vân, Sơn động, Hàn than mộ
Nhất hô thu thập vạn ban thành
Tiểu Ẩn, Bạch Vân quy hứng bộ
Thạch bi nhàn vấn nhận di tông
Sơn cảnh nhân danh tương đối thọ.
Dịch nghĩa:
Núi Phượng Hoàng từ xưa có tiếng ở xứ Kinh Bắc
Làng Kiệt Đặc chiếm lại đã bao năm rồi
Các núi chầu về giống như sao bầy
Hai tay dang ra hình như phượng múa
Trong cung Tử cực trăng một vầng soi
Dưới điện Lưu Quang thông ngàn cây đứng
Ao Rùa, giếng son với am Lệ Kỳ
Chùa động Huyền Vân và mộ Hàn Than.
Thu thập lại trong một bầu trời muôn vẻ thanh nhã
Tiều Ẩn (1) và Bạch Vân (2) đi về thường ngâm vịnh
Thấy bia đá nhân hỏi đến di tích
Cảnh núi tên người song song còn mãi.
Tạm dịch là:
Tỉnh Bắc năm xưa núi Phượng này
Thuộc về kiệt đặc đã bao ngày
Nhiều non chầu lại như sao rải
Hai cánh giương lên tựa phượng bay
Cung Tử Cực soi trăng một mảnh
Điện Lưu Quang thông mọc ngàn cây
Miết Trì, Lệ tự, giếng son lấp
Huyền động Hàn Than mộ cổ xây
Tiều Ẩn, Bạch Vân nhiều cảm hứng
Một vùng thắng cảnh đẹp xinh thay
Dấu xưa muốn hỏi xem bia đá
Cảnh núi tên người thọ mãi đây.

Núi Phượng Hoàng ở xã Kiệt Đặc, nguyên trước thuộc về huyện Phượng Nhỡn. Núi này nhiều ngọn triêu vào giống như sao rải rải (?), hai cánh giương ra tựa như chim phượng múa, thực là một cảnh đẹp, vì thế đặt tên là Phượng Nhỡn (?).
Tục truyền núi này có cung Tử Cực, điện Lưu Quang nên Băng Hồ công có câu thơ:
Lưu Quang điện hạ tùng thiên thụ
Tận thị kình thiên nhất thủ tài
Tạm dịch là:
Dưới điện Lưu Quang thông ngàn gốc
Đều cao cao vót một tay trồng.
Đến nay di tích cung điện đó không còn, chỉ còn lại nền chùa cổ mà thôi.
Dưới núi này có giếng son đẹp, chỗ đất này sản xuất son sắc đỏ tươi, khác hẳn nơi khác,sắc nước đỏ như son, sắc đất cũng như son. Dân địa phương thường lấy ống nứa nhọn cắm vào đáy giếng, lấy được son mềm như bùn, đem phơi khô son đỏ tươi và rắn chất lượng tốt nhất. Trung gian có bà Quý Đức Phi dự biết sẽ đánh thuế, liền thúc giục người làng lấy đá lớn lấp đi từ đó lạc mất chỗ giếng cũ. Lã Đường công có thơ rằng:
Tăng hộ thương quan nhân ủy hổ
Thạch nhàm đã quật vị tầm châu
Tạm dịch là:
Cửa thiền cài chặt vì kinh cọp
Hang núi đào bừa bới kiếm son.
Tức là tả cảnh nơi này. Gần nay triều đình thường sai quan đến khám không thấy tung tích gì cả. Chính người làng cũng không biết nơi nào. Hiện nay son tìm được đều không phải son cũ. Lại có một nơi ở mé sông Miết Thủy. Trong sách thức âm phụ (3) có chép Miết Thủy trì tức là ao này. Tục ngữ gọi là “đĩa son nước noc”(?). Sườn núi có chùa gọi là chùa Lệ Kỳ. Đời vua Dụ Tông,tiến sĩ đời Trần ẩn cư luyện đan (4) ở đây. Đời vua Dụ Tông thường vời vào kinh hỏi phép luyện đan cho hiệu là chùa động Huyền Vân (?)Mi đông (?) có chùa gọi là Hàn Than, ở đó có mộ sư Vô Dĩ (?)
Đời Trần có quan tư nghiệp trường Quốc tử giám, người xã Quang Liệt, huyện Thanh Trì, dâng tờ sớ thất trảm (5), rồi treo mũ áo về quê, yêu phong cảnh núi Chí Linh đến ở đây gọi là Tiều Ẩn tiên sinh,tức là núi này, trong tập thơ của Lã Đương công có câu:
Tương phùng vị hữu hữu quan ước
Linh Triệt hoàn ứng tiếu ngã phầu
Tạm dịch là:
Lúc gặp về hưu chưa ngỏ ý
Chắc thày Linh Triệt đã cười tôi
Sau ông được tặng là Văn Chinh công,được phối tự ở Văn Miếu, việc này sách chép sử viết rõ. Người sau có thơ vịnh là:
Thất trảm chương thành tiện quải quan
Chí Linh chung lão hữu dư nhàn
Tạm dịch là:
Thất trảm dâng rồi quyết bỏ quan
Chí Linh trọn đời được thanh nhàn.
Huyện Thanh Trì tôn thờ là bậc tiên hiền, đền ở làng Cung Hoàng huyện này, tức là nhà dậy học của ông khi trước. Trong bia có câu: “Ngôn yên bất tức ngộ, tức nhật quảu thiên quan, vu cử lin Sơn hạ, thái nhiên tự thích nhàn”
Tạm dịch là “Nói rồi mà không tỉnh, liền treo mũ về ngay, về núi Linh ẩn dật, tiêu dao trọn tháng ngày”.
Đến cuối đời nhà Mạc, có trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, hiệu là bạch Vân tiên sinh, người huyện Vĩnh Lại, cũng đến ẩn cư ở nơi này (?). đời tiền Lê (?)quan hành tu tham chính, họ Bùi người xã Thịnh Liệt huyện Thanh Trì dựng lều ở mé núi (?). Đến nay nhà sư trụ trì  ở núi này thương giỏi phù chú, ý chứng được thần núi phù giúp. Lại các nhà sư thường trồng thông, tới nay rậm rạp trông như đám mây đem lời cổ ngữ mày sui (?), há có phải là chỗ đất nên trồng thông hay sao?

Ghi chú:
(1): Tiều Ẩn : tên tự Chu Văn An
(2): Bạch Vân: tên tự Nguyễn Bỉnh Khiêm
(3):Thức âm phụ: ba chữ này chưa rõ
(4): Luyện đan: luyện thuốc tiên
(5):Sớ thất trảm: sớ xin chém 7 người nịnh thần.

(Phần này trong tài liệu đánh máy từ 2/3 trang 15 đến 2/3 trang 18)


Sao Đỏ 11/12/2013
Đỗ Đình Tuân



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

AI MUA...TÔI KHÔNG...?

                                         Ai mua , tôi bán tôi cho                               Giá mua chỉ một cánh cò chiều đông,   ...