LÀNG MẶC ĐỘNG…
Dịch âm:
Mặc
Động Lương Giang văn phái báo
Hương
trung điệp kiến nguy khao trạc
Cổ Châu
mạch tiếp Đáp Khê hương
Phan
Quế thời dương mao tinh tác
Đột
Lĩnh Phao Sơn thủ nhị hương
Thiên
hoằng phá liễu xưng văn học
Đan ngôn
Đột Lĩnh thiếu đăng khoa
Trách
thổ du ngư hà lỗi lạc.
Dịch nghĩa:
Làng
Mặc Động có sông Lương Giang nguồn văn sâu rộng
Trong
làng thường thấy có người đỗ đại khoa (1)
Làng
Cổ Châu mạch nối với làng Đáp Khê
Bẻ
quế thường cùng nêu danh với nhau
Hai làng
này là Đột Lĩnh với Phao Sơn
Có người
bắt đầu thi đậu khen là làng văn học
Nói riêng
làng Đột Lĩnh ít người thi đậu đại khoa
Đất
sỏi có chạch sao giỏi giang như vậy.
Dịch thơ:
Mặc
Động sông Lương mạch thấm sâu
Làng
này thường thấy đậu khoa cao
Cung
trăng bẻ quế (2) danh lững lẫy
Làng
Đáp Khê kia với Cổ Châu
Phao
Sơn Đột Lĩnh cả hai làng
Văn học
xem chừng mới vỡ hoang
Đột
Lĩnh đại khoa âu cũng hiếm
Chạc
trong lòng sỏi tiếng đồn vang.
Nguyễn Uyên
Ông
là người làng Mặc Động, đậu tam giáp tiến sĩ khoa Bính Thìn, năm thứ 2 niên
hiệu Quang Bảo, triều Mạc, làm quan đến chức thượng thư, phong Sắc Nham Lang
hầu.
Nguyễn Thế Tiêu
Ông là
người làng Mặc Động, đậu nhị giáp tiến sĩ khoa Giáp Thìn, năm Hoằng Định đời Lê
Trung Hưng, làm quan đến chức Tự khanh, phong tước tử.
Nguyễn bá Huyên
Ông là
người làng Cổ Châu, đậu đệ tam giáp tiến sĩ khoa Mậu Thìn, năm thư 4 niên hiệu Đoan
Khánh triều Lê, làm quan đến chức Tham chính.
Lại Đức Du
Ông là
người làng Đáp Khê, năm 34 tuổi đậu đẹ nhị giáp tiến sĩ khoa Quý Sửu, năm thứ
24 niên hiệu Hồng Đức, làm quan đến chức Đề hình giám sát ngự sử.
Nguyễn Bỉnh Di
Ông là
người làng Đáp Khê, đậu hội nguyên, đậu tam giáp đồng tiến sĩ, khoa Bính Thìn
năm thứ 2 niên hiệu Quang Bảo, làm quan đến chức Đô dài ngự sử, phong tước Đông
Khê hầu
Nguyễn Xuân Quang
Ông người
làng Đột Lĩnh, đậu tam giáp tiến sĩ khoa Kỷ Mùi, năm thứ 5 niên hiệu Quang Bảo,
làm quan đến chức Thâm chính kiêm Đông các đại học sĩ.
Trương Hữu Bùi
Ông là
người làng Phao Sơn, đậu đệ tam giáp tiến sĩ khoa Kỷ Mùi, năm thứ 5 niên hiệu
Quang Bảo, làm quan đến chức Thừa Hiến sát sứ.
Tương
truyền Nguyễn Xuân Quang thiên tư rất dốt nhưng rất chăm học, thích đọc sách,
suốt đời không quên học, suốt đêm không ngừng tiếng. Tiếng ông ồ ồ, người làng
nghe rất ngán, họ thường bịt tai. Nhà ông có vườn câu, thường ngồi dưới gốc
cau, vừa học vừa gõ. Nhưng gốc cau ông ngồi thường bị chết khô. Người chị thấy
ông ông học cần khổ như vậy, cũng động lòng thương bảo ông rằng: : đất sỏi đá
liệu có chạch ư, sao em khổ thân như thế?”. Vì làng này từ trước không có ai đỗ
đạt, cho nên lấy lời đó chê ông. Ông cũng không thôi, lại càng chăm học. Lâu
lâu khí chất thay đổi, thành học trò giỏi. Đậu tiến sĩ, lại trúng làm chức Đông
các. Ngày vinh quy làm cỗ đãi chị, đặt một con trạch to ở trên mâm cỗ. Chị hỏi
tại sao? Ông nói: “Đất sỏi vốn không có chạch, nếu có thì to như vậy”. Chị bèn
cười to mà rằng: “Ôi, có chí việc hẳn thành”.
Lại
truyền rằng: một thiên “Thư trung tiền túc” là sách của ông viết, ngoài ra
không còn truyền lại gì cả.
Sau có
Trần Huy Liễn là người làng Đột Lĩnh đậu đệ tam giáp tiến sĩ khoa Kỷ Hợi, năm
thứ 41 niên hiệu Cảnh Hưng đời Lê, làm quan đến chức Dặc tiến kim tử vinh lộc
đại phu, Thừa chính sứ tư, phong tước Đẩu Sơn bá (nguyên quán làng Phú Thị
huyện Gia Lâm)
(1)-Đại khoa: khoa thi hội đậu tiến sĩ (ND)
(2)-Cung trăng bẻ quế: ý nói người đậu tiến sĩ cũng như bẻ quế trên cung trăng (ND)
25/1/2014
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét