XÃ KIỆT ĐẶC
(Kỳ 3)
NGUYỄN QUANG TRẠCH
Thơ vịnh phiên âm:
Cánh
hữu đồng hương Nguyễn Quang Trạch
Ngang
nhiên tiếp bộ thướng hanh cù
Nhã
linh tố kiến phong tư dị
Đối
cú tiên trưng khí khái thù
Vãn
tuế vị thành ưng hữu đãi
Tam
nhân tất dự quả nhiên phù
Thạch
đăng bảng tịnh song thời vọng
Sách
phú danh trì biến quốc đô
Kiều
mộc dư niên chiêm vũ lộ
Cẩm
y bạch trú lạn phần du
Nhất
hướng dịch diệp thư hương phúc
Cụ
tại nhân tuyền bất tận phô.
Dịch nghĩa:
Lại
có người cùng làng Nguyễn Quang Trạch
Ngang
nhiên theo bước lên đường tốt đẹp
Thường
nghe thấy phong thư lạ lung
Câu
đối chứng minh ngay trước khí khái người khác
Luống
tuổi chửa thành là do có điều phải đợi
Ba
người cùng đợi quả nhiên lời nói phù hợp
Trạch
đăng cùng bảng là điều người thời ấy mong mỏi
Văn
sách và phú tiếng khen khắp kinh đô
Cây
cao nhiều năm về sau còn thấm nhuần mưa móc
Áo
ấm mặc bay ngày làm rạng vẻ quê hương
Một
làng vinh hiển hương thơm nức
Miệng
người đồn khắp nói ra không hết.
Tạm dịch:
Cùng
xã có Nguyễn Công Quang Trạch
Cùng
thang mấy hiển hách theo đường
Phong
tư dĩnh ngộ lạ thường
Đối
niên khí khái hiên ngang khác người
Đăng
khoa muộn hẳn thời tại số
Rằng
ba thôi cũng đỗ mà thiêng
Trạch
đăng cùng bảng có tên
Kẻ
sách người phú vang truyền đế đô (1)
Cây
cao được ơn nhờ mưa móc
Giữa
ban ngày gấm vóc về làng
Tử
phần rạng vẻ thư hương
Miệng
đời truyền tụng há rằng phải khoe.
Nguyễn
Quang Trạch người xã Kiệt Đặc, theo học thư ký tiên sinh xã Kỳ Đặc cùng tổng.
Ngay khi còn bé, ông đã tỏ ra rất thông minh. Năm ông 7 tuổi, cụ thân phụ ông,
liền ra câu đối rằng: “THất tuế thần đồng tử”, nghĩa là “Con thần đồng 7 tuổi”.
Lúc ấy ông đọc Kinh thư vừa đến tiết Đại Vũ đời Hạ, liền ứng khẩu đối rằng: “Bát
đại hoàng đế ton”, nghĩa là “Cháu hoàng đế 8 đời’. Cụ thân phụ lấy làm kinh dị
bụng bảo dạ: “Sau này nó tất thành danh lừng lẫy”. Ông đậu đạt chậm. Khoa Giáp
Thìn cả thẩy 13 người đậu tiến sĩ, mà ông thì trượt. Cụ thân phụ tức giận nói
rằng:
-Tiến
sĩ lấy 13 người mà không đậu, muốn đợi đến bao giờ mới thành danh?
Ông
kiêu hãnh đáp:
-Mười
ba không đậu, nhưng ba thì đậu.
Năm
ông 36 tuổi, tức là năm Cảnh Trị thứ 5, triều Lê. Khoa Đinh Mùi, quả nhiên chỉ
lấy có 3 tiến sĩ, mà ông được trùng tuyển. Phải chăng đó là người bảo như thần
bảo?
Khi
vào thi đình, có người hỏi ông đậu thứ mấy, và ai là người cùng bảng? Ông trả
lời rằng ông và ông Nguyễn Đăng người xã Bình Vọng, huyện Thượng Phúc, xứ Sơn Nam
cùng đậu. Vì bấy giờ người ta đã có câu: “Phú ông Trạch, sách ông Đăng”. Đó là
vì ông thì giỏi về thể phú, mà ông Đăng thì sở trường về văn sách.
Lúc
làm quan, ông là người có tính cương trực không chịu khuất. Sauk hi làm đến
chức Hình khoa đô cấp sự trung, ông được về hưu. Hai con ông đều đậu tiến sĩ:
Người con cả là Nguyễn Quang Hạo, năm 21 tuổi đậu đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân
khoa Tân Mùi, năm Chính Hòa thứ 12, làm quan đến chức Tham chính. Người con thứ
hai là Nguyễn Quang Tứ, năm 27 tuổi, đậu đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân khoa
Canh Dần, năm Vĩnh Thịnh thứ 6, làm quan đến chức Đông các đại học sĩ. Trong
huyện ta, trong các họ lớn có người làm quan tại triều, con cháu nội ngoại,
hiển đạt giầu sang, họ ông là đứng vào bậc nhất.
Tục
truyền rằng ông cùng ông Mai đánh cờ, ông Mai đùa nói:
-Con
sớ mở quân in miệng dọc
Ông
ngạo nghễ đối ngay:
Thằng
chái ghệch đái đái đầu Mai.
Thường
khi cùng người nghị luận, ông không chịu ai, và ai cũng chịu ông là người trực
tính.
(1)
Phú và sách là
hai thể văn trong lối thi của thời xưa (ND)
18/1/2014
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét