LONG ĐỘNG
(Kỳ 4)
Lại
một lần công chúa nhà Nguyên chết, đến lúc tế, cắt ông vào đọc văn tế. Khi vào
đọc thì chỉ thấy trang giấy trắng, đầu trang 4 dòng chỉ đề 4 chữ “nhất”. Ông
ứng khẩu đọc luôn:
“Thanh
thiên nhất đóa vân
Hồng
lô nhất điểm tuyết
Thượng
uyển nhất chi hoa
Quảng
Hàn nhất phiến nguyệt
Y!
Vân tán tuyết tiêu
Hoa
tàn nguyệt khuyết”
Nghĩa
là: Một đám mây trên trời xanh/ Một mẩu tuyết trong lò hồng/ Một cánh hoa vườn thượng
uyển/ Một mảnh trăng cung Quảng Hàn/ Than ôi! Mây tán tuyết tan/ Hoa tàn trăng
khuyết”!
Người
Tầu kính phục cái tài làm văn của ông, ghi chép vào.
Khi
ông ở Trung Quốc, người nhà Nguyên rất lấy làm lạ cái tài của ông, mà xét về
tướng mạo thì không có gì là “quý tướng”. Họ rình khi ông ra nhà xí, ngầm dò
xét, thì thấy “đại tiện ra phân khuôn vuông’, cho là ông có ẩn tướng quý ở đó.
Sau
khi ông đi sứ trở về, nhân xét phong thủy, xem lại các mồ mả của tổ tiên đời
trước đều không có ngôi nào được cả, khi tới thân phụ ông, ông mới tấm tắc ngợi
khen mà rằng: “Thật là đất phát tích ở đây!”. Nay xét lại ngôi mộ này hình thế
rất đẹp, tuy con mắt tầm thường trông cũng thấy là “quý cách”. Nhưng thủy không
tụ lại, chỉ sang mà không giầu. Cho nên ông là người thanh liêm, ít bồi dưỡng
cho mình. Vua Minh Tông xét thấy tình hình của ông như vậy, sai người đến bỏ
tiền xanh, lúc tối để vào trong cổng nhà ông. Sáng mai, ông vào chầu vua, tâu
rõ sự việc như vậy. Vua nói: “Tiền không có chủ nhân, nhà ngươi đem về mà tiêu
dùng”. Ấy tiết tháo thanh liêm của ông đại loại là như vậy.
Sau
Thoát Hiên tiên sinh có thơ vịnh ông rằng:
Đệ
nhất (1) khôi nguyên thọ trí thân
Cư
quan bất cải cựu thanh bần
Phiến
Minh trọng ngự yên đại dự (2)
Sử
tiết phương tri quốc hữu nhân.
Dịch nghĩa:
Đỗ
đầu nhất giáp thân sớm hiển đạt
Làm
quan mà vẫn giữ nếp thanh bần cũ
Thơ
quạt được vinh dự ghi trong đài yên Minh
Đi
sứ mới tỏ nước ta có người giỏi.
Dịch thơ:
Thư
nhất bảng vàng sớm nổi danh
Làm
quan vẫn giữ nếp nhà tranh…
Yên
đài lừng tiếng thơ đề quạt
Sứ
sự được người nước cũng vinh.
Ông
đi sứ về, ông cho sung chức “Thái liêu sam phục” *. Ông có bài biểu tạ, sau đến
đời vua Hiến Tông được làm chức Nhập nội thị hành khiển, hữu ty lang trung, rồi
làm đén chức Nhập nội đại hành khiển, thái bảo tả bộc xạ, kiêm trung thư, Tổng
chính trị quân dân trọng sự. Ông làm quan thanh liêm, giữ lòng trung thứ tiếng
vang cả hai nước, ơn thấm khắp một thời, thường làm huấn thư để lại cho đời
sau, đến nay thất truyền (thấy ghi ở bia An lăng). Lúc thường ông viết văn rất
nhiều, nhưng được lưu hành ở đời chỉ có bài thơ Quạt, văn tế và 4 đôi câu đối
(xem tập sách Việt âm), 1 bài phú (Xem tập quần hiền), 1 bài biểu tạ (xem tập
Quốc triều biểu tập), ngoài ra không thấy có gì nữa. Ông sang nhưng lại nghèo,
cho nên phúc trạch của ông để lại…(thiếu 1 trang) …ở làng Cao Đôi để thờ, bờ
phía bắc sông lớn trước điện Kinh chương đặt lên một cái đống, các quan đi qua
tới đó bái vọng. Nay chỗ ngôi mộ thân phụ ông, người ta nói là có lăng, đến
(Bác bang đôi điện kỳ nhất biển, bác đại giang tại nhị hương Trung đông đôi xã,
đôi ở thảo). (3)
Với
các học đường (một ở chùa Quất Lâm, một ở huyện lỵ thuộc xã Cao Đôi di tích hãy
còn. Trong làng có miếu thờ ông, đời này quan đời khác. Ông xưng là Huệ cảm
linh ứng đại vương, bà vợ xưng là Lưỡng quốc từ chính công chúa, phong hiệu
dựng miếu, người làng kính thờ, khởi từ đời nào đều chưa khảo cứu được. Đến nay
vẫn là phúc thần. Lời phê phán của người nhà Nguyên đến nay thấy đúng.
Lại
truyền rằng khi ông ở kinh đô, nhà riêng ở phía đông nam kinh thành gần sát
sông cái gọi là xứ ông Hàn.
Người
đời sau bàn luận rằng: “Từ khi nước Việt ta mở khoa thi, đỗ đầu đời nào cũng
có, mà được xưng là trạng nguyên hai nước, chỉ có một ông, danh sĩ các triều kể
sao xiết được mà đến nay đàn bà con trẻ cũng biết tên tuổi, chỉ có một ông mà
thôi. Nói về sự nghiệp của ông rờ rỡ như việc ở trước mắt, đọc văn chương của
ông, sừng sững như hãy còn có sinh khí. Thế thì ông tài đức như vậy, khoa danh
như vậy, đức hạnh tiết tháo lại như vậy, sở dĩ gọi là bậc tài ba khoáng chế, nhân
vật khác thường thì ông có thể xứng đáng như vậy”.
Chu
Xán là người Tầu sang sứ nước Nam
về, khen nhân vật nước ta, cho ông là một nhân vật bậc nhất, ai lại chẳng tin.
Há có phải vì cớ con cháu mà làm vết được đâu? Đáng tiếc thay! Văn chương sự
nghiệp của ông không được truyền hết. Cho nên tôi là bậc hậu sinh, kiến văn quê
kệch, hoặc được gia đình nói chuyện, hoặc được thế tục truyền ngôn, tham khảo
các sách, thuật lại những điều đại khái, họa là còn lại mười phần nghìn, một
phần trăm đó thôi.
Xét
sự nghiệp của ông đáng truyền, không nên lấy cớ con cháu mà làm mất cái hay.
Cho nên chép ra đây để người đời sau thấy rỗ đầu đuôi, xin người đọc lượng tình
cho.
Xét:
Tham khảo bài phụ lục rằng: tương truyền quan trạng nguyên sinh giờ thân ngày 8
tháng 6 năm Giáp Thân chưa biết có đúng không?
Lại
truyền thuyết: ông gặp người thị tỳ dẫn đi xem việc ở âm phủ, vả thuộc về sự
quái gở, hoặc có người nói ông thường làm văn quốc ngữ để ghi chép việc đó,
nhưng nay không còn không thể xét được.
Chỉ
có chùa cổ trăm gian, cầu 9 dịp ở huyện Siêu Loại xứ Kinh Bắc, thường truyền là
ông biết được việc ở âm phủ mà xây dựng nên, người sau lại sửa sang lại. Hiện
nay di tích hãy còn.
Ghi chú
(1)- Đệ nhất: có bản là “Giáp
đệ”
(2)- Trọng ngự: có bản là
“danh trọng”
(3)- 20 chữ trong ngoặc đơn
có lẽ sách chép nhầm hoặc xót chữ nên không rõ nghĩa, sao lại nguyên âm để kê
cứu sau.
1/1/2014
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét