XÃ KIỆT ĐẶC
(Kỳ 1)
Dịch âm:
Kiệt
Đặc danh hương khoa lý lục
Nguyễn
Công Hoàng giáp quán thời mao
Nhị
Ty xa mã tâm khai dị
Bách
lê xừ chưởng tại ngõa phao
Nhạn
tháp đề danh văn khả chí
Đô
đài dốc lực hứng thiên hào!
Tất
đầu phú trọng minh kim thạch
Đình
ngoại thư lai đẳng vũ mao
Đãn
bả phong lăng trưng địa chí
Vị
ưng quan mụcnhận tùy giao
Huyền
đình tích hối phi Tề trạch
Bảo
Đức ngân thành biên sở Tao
Nam cực tinh huy dư ảnh viễn
Trêm
thâm thùy thế vọng di cao.
Dịch nghĩa:
Làng
Kiệt đặc là làng nổi tiếng có 6 đại khoa
Có
ông Hoàng giáp là người giỏi hơn các văn sĩ bấy giờ
Thấy
xe phó ty đi xe ngựa trong làng phấn khởi
Đang
cầy tấy vậy bỏ tay cầy ra
Tháp
nhận (1) đề tên nhờ văn chương làm nên danh giá
Quan
Đô dài đấu sức hứng thú rất là hào hùng
Búa
bổ gối vỡ để tỏ lòng vàng đá
Thư
đưa đến mời coi nhẹ như lông
Chỉ
cần căn cứ ở sách Phong lăng địa chí (2)
Chưa
nên lấy quan chức mà nhận ở sách ty giao (3)
Núi
Huyền Đinh ẩn tích không phải như Bành Trạch nước Tề
Núi
Báo Đức ngâm thơ biến thành ra Ly Tao nước Sở
Ánh
sáng sao Nam Cực chiếu khắp nơi xa
Dòng
dõi tram anh danh vọng càng cao.
Tạm dịch thơ:
Làng
Kiệt Đặc đại khoa sáu vị
Hoàng
giáp hơn danh sĩ đương thời
Thấy
quan sang trọng hơn người
Xui
lòng muốn học tay rời cầy ra
Tên
tháp nhận thật là danh giá
Chức
Đô đài hứng khá hào hùng
Búa
ghè vỡ gối giữ trung
Chiếu
vời lòng vẫn đỉnh chung không màng
Nên
căn cứ Phong lăng địa chí
Chớ
vội tin sụ ký ty giao
Huyền
Đinh ẩn dật chí cao
Biến
thành Báo Đức văn hào vịnh ca
Sao
Nam Cực xa xa dọi bóng
Nếp
tram anh danh vọng càng cao.
Ông
Nguyễn Doãn Khâm là người làng Kiệt Đặc, lúc bé thất học, làm nghề đi cầy. Lúc
đó có quan Thừa Ty, cai trị ở đồn Phao Sơn, đi qua làng Kiệt Đặc , ông đang cày
ở cánh đồng, thấy có người đi nhanh quát to “Tránh ra”. Ông liền hỏi rằng: “Họ
làm gì mà được giầu sang như vậy?”. Mọi người nói: “Do đọc sách mà được đấy”.
Ông nói: “Tôi cũng làm được, không đi cày nữa”. Rồi về ông tìm thày theo học.
Đến năm ông 28 tuổi, đậu đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Mùi, năm thứ 5
niên hiệu Quang Bảo triều Mạc. Tên ông được ở trên ông Đồng Hãng.
Ông
tay dài quá gối, có tài có sức, giỏi nghề đánh vật, các lực sĩ thị vệ cũng không
địch nổi, làm quan Đô dài ngự sử, mắt đỏ điểm máu. Một ngày tết ông ở kinh về
nhà, đi quan làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, nghe tin làng Giao Tất mở cuộc đánh
vật, có một lực sĩ (trai vật), giữ giải 3 ngày rồi không ai giám đấu. Ông bèn
dừng xe lọng, quân sĩ ở xã Phú Thị, sai người hầu đi mua một con cá chép to và
thổi một mâm xôi. Ông ăn hết rồi cười mà rằng: “Mọi người mang cái bụng ta này
còn e không nổi, huống hồ lại còn đấu sức với ta ư?”. Rồi bảo lấy khố của người
theo hầu vận vào, tời đám đánh vật, để đấu với lực sĩ kia. Lực sĩ giận lắm, ý
định vật ông chết. Ông vào đấu một keo, ôm lực sĩ kia ném ra ngoài rào. Kẻ kia
trở tay không lịp. Ông nói to lên rằng: “Ta là quan Đô đài ngự sử Nghiêm Sơn
hầu, mi đã chết chưa ?”. Rồi lên xe đi liền.
Lại
truyền thuyết: Mỗi lần ông về nhà, lại mở đám vật làm vui. Sau ông làm đến chức
Lại bộ thượng thư. Gặp khi nhà Mạc thất thế, ông về ở núi Huyền Đinh. Đến khi
nhà Lê Trung hưng, có chỉ vời ông ra làm quan, ông lấy bùa bổ vỡ đầu gối, cáo
bệnh không ra.
Khi
ông ẩn dật, thường cùng ông Nguyễn Phong là người cùng làng, chơi ở núi Báo
Đức, ông ngâm câu thơ rằng:
Cõi tat a mở trời hoang dã
Nữa nữa con em nối gót theo
Ông hưởng thọ hơn 80 tuổi. Sau cháu 5 đời(chút)
của ông là Nguyễn Đình Tuấn đậu đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu
Thìn năm thứ 9, niên hiệu Chính Hòa, làm quan đến chức Thừa chỉ, phong tước bá,
đúng như lời thơ của ông.
Ghi chú:
(1): Tháp nhạn: tháp ghi tên người đỗ đại khoa vào
(2): Phong Lăng địa chí chép ông không ra làm quan với nhà Lê
(3): Sách Ty Giao chép rằng ông ra làm quan có nhiều công trạng
9/1/2014
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét