THƠ BÁT CÚ VÀ NGŨ NGÔN VỀ CHÍ LINH
(Kỳ 6)
Phiên âm:
Dị
tai nhất kính chiếu tam vương
Tài
nữ Tinh Phi Kiệt Đặc hương
Tuyệt
thế mỹ dung kiêm dĩnh tuệ
Hộ
khoa thủ tuyển lộ văn chương
Phế
hưng để sự nhiên điền hải
Sủng
ngộ thù ân tự phấn hương
Lưỡng
cú tương minh gia ký tái
Sơn
đầu hoa tháp kỷ viêm lương.
Dịch nghĩa:
Lạ
thay một gương soi ba vị vương
Đó
là tài nữ Tinh Phi xã Kiệt Đặc
Người
đẹp tuyệt trần lại thông minh
Thi
hội đậu đầu tỏ rõ văn chương
Triều
đại còn mất xét cho cùng phó mặc dâu bể
Được
mến yêu trọng dụng, ơn đặc biệt ấy do phấn hương tạo nên
Hai
câu tự thuật còn ghi trong gia phả
Tháp
hoa trên ngọn núi đã trải qua bao nắng mưa.
Tạm dịch thơ:
Lạ
thay một kính chiếu ba vương
Kiệt
Đặc Tinh Phi vốn cố hương
Đẹp
tuyệt trần đời thêm sắc sảo
Đậu
đầu thi hội nổi văn chương
Mất
còn chuyện ấy thây dâu bể
Mến
trọng ơn này tự phấn hương
Gia
ký hai câu còn để lại
Tháp
hoa đầu núi mấy tinh sương.
Chánh
vương phủ, thị nội cung tần, Đức lão lễ sư, Nguyễn Thị Ngọc Toàn, hiệu Diệu
Huyền là người xã Kiệt Đặc. Tục truyền rằng mộ thân phụ của bà ở núi Trì Ngư,
xưa có người Tầu để cho với lời dạy rằng: “Nhất kính chiếu tam vương”. Táng
xong đến ngày 14 tháng 3 thì sinh bà. Bà thân mẫu nằm mộng thấy sao sa vào
bụng. Tên là bà Thị Duệ, nhan sắc tuyệt thế, thông minh hơn người. Thời bấy giờ
có ông Nguyễn Quý Nha, làm quan trong triều là người cùng làng, nhờ mối lái
muốn hỏi làm vợ nhưng bà không bằng lòng. Trong bài tự sự viết bằng quốc ngữ bà
có câu: “Giận loài vàng đá hỗn hào, thoáng đem cánh Phượng bay lên thạch
thành”. Năm 20 tuổi, cuối đời Mạc, bà theo cha chạy loạn lên Cao Bằng. Có người
nói: “Đành thay là kẻ có thân, che trên đã có trời xanh phù trì”. Nhân lúc ấy
bà ăn mặc giả trai theo thầy học tập, học rộng văn hay. Hồi ấy khu đất Đông Bắc
còn thuộc nhà Mạc. Nhà Mạc mở cuộc thị Hội tại Cao Bằng, sĩ tử ứng cử có nhiều,
bà đậu đầu, thứ hai là thầy học của bà. Ông thày học cười nói: “Mầu xanh từ mầu
lam ra, mà đẹp hơn mầu lam”. Khi vào dự yến, chúa Mạc thấy diện mạo là phụ nữ,
hỏi dò biết được sự thật bèn lấy làm vợ, đặt tên là Sao Sa. Khi nhà Mạc mất, bà
vào ẩn trong hang núi, bị quân nhà Trịnh bắt được. Bà bảo quân sĩ rằng:
-Bọn
bay đã bắt được ta, nên đưa ta đến gặp chúa bọn bay, không được vô lễ. Nếu vô lễ
chỉ có thanh kiếm này thôi, mà bọn bay rốt cuộc cũng sẽ chẳng có thành công gì.
Quân
sĩ lấy làm lạ đưa vào tiến chúa, bà liền được quý mến trọng dụng. Chúa Trịnh
ban lệnh chi chấp cho bà tiền đóng góp về binh lính, thuế tô ruộng công, thuế
đò, thuế chợ cùng các thứ thuế khác để làm bổng lộc. Và từ đó về sau trải qua
20 năm, không những sưu sai tạp dịch được miễn trừ mà còn được cấp 100 quan
tiền và 2 mẫu ruộng tốt. Nhân dân xã bà từ trên chí dưới được cảm tình của bà,
lại chịu ơn ban ngoại lệ nên đều một lòng kính trọng tôn bà làm hậu thần.
Nhưng
bà rộng xem kinh thánh, thông suốt Phật giáo, hưởng bổng lộc nhiều, nhân dân có
lập ra quy ước, định rằng trong ngày kỵ nhật tiên tổ nội ngoại và ngày sinh,
giỗ của Đức lão (8 tháng 11) đều dùng cỗ chay oản quả cúng lễ, và lệ đó sẽ
truyền mãi về sau.
Lúc
tuổi già, bà trụ trì chùa Vụ Nông huyện Gia Lâm. Khi thân quân Hoằng tổ Dương
vương lên ngôi, cho tìm nữ học sĩ để dạy cung nhân, gọi bà vào Lễ sư; bất cứ
việc gì trong hai triều đều lấy văn chương cung phụng, luôn luôn ở cạnh mình.
Mỗi khi chúa có việc gì hỏi han, bà đều dẫn kinh sử, sự tích xưa nay để đối
đáp; chúa thường khen ngợi. Cả đến chuyện thi Hội, văn sớ quần thần cũng qua
tay bà xem xét quyết định. Khoa Tân Mùi vào thi Đình, Nguyễn Thọ Xuân đậu đầu,
văn chương chữ nghĩa sâu sắc không ai hiểu thấu được; chúa hỏi ý kiến, bà trình
bày ý rõ ràng, vua khen là người học rộng. Trước khi hành văn, Nguyễn Thọ Xuân
đã nói rằng: “ Văn của ta cả triều không ai hiểu hết được đâu, họa chăng có chị
ta là Lễ sư thôi”. Ông cùng bà là anh chị em họ ngoại với nhau. Ông nói đúng
như vậy, thật bà là người tài cao học rộng vậy.
Tục truyền rằng bà khéo khuyến
khích người sau. Mỗi tháng hai kỳ sai người nhà làm cỗ, họp sĩ tử tư văn
hàng huyện lại cho tập làm văn. Đầu bài sai người từ Kinh đô mang về. Bài làm
xong, giao cho các vị hội viên tư văn niêm phong cả lại đem nộp. Chính tay bà
xét duyệt. Đúng hạn gửi trả lại, đăng tên lên bảng kỳ thư. Việc ra bài làm như
vậy thực hiện rất đều. Sau thời kỳ trung hưng, phong trào văn học mở mang rộng
lớn là do bà gây dựng nên. Tục lại truyền
rằng: trong số ruộng bà được chúa ban cho hưởng lộc riêng tại bản quán, bà
sai lấy 10 mẫu ruộng tốt thưởng cho các bậc sĩ phu đại khoa trong xã.Mãi sau lệ
này mới bỏ đi. Anh ruột bà xưa kia bị người làng giết hại, khi bà được giầu
sang vinh hiển, kẻ sát nhân thờ cúng người anh rất chu đáo, bà cũng không đem
lòng oán hận gì. Người thời bấy giờ phục bà là người có đức độ.
Năm
gần 80 tuổi bà sai người Tầu dựng cho một cái am, trước án mộ tổ. Bà mất khi
tuổi ngoài 80, trước sau thờ tất cả ba vua.
Văn
bà viết có đến trăm tờ, gần đây vẫn còn, nhưng sau thời loạn thì mất cả. Ôi!
như bà có thể nói là sống khác vậy. Người xưa có câu: “Nghiêu Thuấn trong giới
phụ nữ, thần tiên trong cõi đời ”. Bà cũng gần được như vậy.
Sau
khi bà mất, người ta táng bà bên cạnh mộ tổ, xây một ngọn tháp đỏ, gần xa đều
có thể thấy rõ, tháp ấy đến nay vẫn còn.
Về
ngành nội nhà bà có một chi tại xã Vụ Nông huyện Gia Lâm, con cháu vẫn còn.
Có
bài minh viết về bà như sau:
Phiên
âm :
Nhân
kiệt chung anh, địa linh tú khí
Phát
xuất thiên hà, tần thị ngọc phủ
Đức
quán hậu cung, lộc cập tiên tổ
Ân
trạch chu lưu, hương nhân kính mộ
Tư
tiến hinh hương,khánh dư thuần hỗ
Ich
diễn vân nhưng,dũ quan tiên tổ
Vạn
cổ đức công,lưỡng gian vũ trụ
Ưc
tải hoàng đồ,thiên niên thánh thọ.
Dịch
nghĩa:
Vẻ
đẹp người tài,khí thiêng đất quý
Dòng
dõi từ cõi trời,làm nữ quan nơi ngọc phủ
Đức
bậc nhất trong cung hoàng hậu,
lộc
ban đến cả cha ông
Ơn
huệ khắp nơi,người làng kính mộ
Hương
thơm lừng khắp,phúc trạch có thừa
Càng
vẻ vang con cháu,càng rạng rỡ tổ tiên
Công
đức nghìn năm,vũ trụ hai cõi
Nghiệp
vua dài lâu,tuổi thọ muôn thuở.
Tạm
dịch:
Người
đẹp tài hay,khí thiêng chung đúc
Gốc
tại cõi trời,duyên trong phủ ngọc
Đức
nhất hậu cung,ông cha hưởng lộc
Ơn
huệ khắp nơi,quê hương kính phục
Hương
khói thơm lừng,thấm nhuần mưa móc
Càng
rạng cháu con càng vinh cõi gốc
Vũ
trụ hai miền,muôn đời công đức
Thánh
thọ vạn năm,nghiệp vua vạn ức.
17/2/2014
Đỗ Đình Tuân
Anh Tuân là một sử gia rồi!
Trả lờiXóaAnh Tuân chỉ là một nhà giáo yêu lịch sử văn hóa địa phương thôi thì đúng hơn. Sử gia thì phải tầm cỡ quốc gia cơ. Còn anh mới là tầm cỡ huyện. Còn bé bỏng lắm Hồng Nga ơi.
Trả lờiXóa