Bản
dịch ngọc phả
Bản tóm tắt doNguyễn Bỉnh soạn
Thiếu Khanh Nguyễn Hiền sao
Hoàmg
triều Vĩnh Hựu thứ 3, tháng mùa đông,
ngày lành, Điện quản giám bách thần, nhân chức Thiếu khanh, tôi Nguyễn Hiền
tuân phụng sao như chính bản tiền triều.
Tiều
Lê trong dòng người Việt công thần giúp nước có nhiều công lao lớn nổi bật đáng
được sắc phong là:
Ba
vị Đại Vương, hai vị Công chúa ghi trong Ngọc Phả sau đây(Triều Lê bản chính,
công thần quyể bốn thuộc tám bộ).
Sự
tích Việt Nam
xưa Đức thánh tổ Hoàng Đế xây dựng cơ nghiệp, hoạch định cương vực khai sáng
nước Việt là họ Hùng, mười tám đời ngự trị. Trời Nam đại quý sáng lập nên thành đô,
dựng nên vạn vật làm nên cơ đồ rạng rỡ.
Những
người giúp nước có công lao trung nghĩa, dù thần thánh hay người trần, sống
hoặc chết nhưng công loa sự nghiệp vẫn còn, tiếng thơm mãi mãi cùng sông núi,
đạo đức sáng cùng mặt trăng mặt trời.
Lại
nói nước Nam
có họ Đinh, Lê, Lý, Trần bốn họ đều anh hùng cai trị nước ta. Thời Tiền Lê vua
Lê Đại Hành cai trị đất nước lòng nhân như trời như bể, trí dũng như thần như
thánh chuyên việc lấy đức cùng dân làm gốc. Người đời đều gọi là vua quý.
Lại
nói cũng trong thời ấy ở Dược Đậu trang, huyện Bàng Châu, phủ Nam Sách, trấn
Hải Dương có một gia đình ở vào bậc trung ăn ở nhân hậu có tiếng, họ Vương tên
là Tĩnh, vợ họ Đào tên là Thanh. Vợ chồng thương quý nhau, gia đình thuận hòa
đầm ấm. Bà Thanh có thai, ăn uống khác thường chọn toàn các thứ ngon mà trong
sạch. Tới kỳ sinh nở bà sinh ra một bọc được 5 người con: ba trai, hai gái (Đó
là ngày 26 tháng 10 vào giờ Mão). Con trai mặt mũi khôi ngô tuấn tú, vẻ võ
tướng đã hiện trên nét mặt, khác hẳn người thường. Con gái mặt như hoa, da như
phấn không vương chút bụi trần, môi tựa son tô dáng vẻ chim sa cá lặn, nguyệt
thẹn hoa nhường, như bậc thần nữ trong giới quần thoa.
Cha
mẹ nuôi nấng được một năm mới đặt tên:
-Con
trai thư nhất họ Vương húy là Đức Minh.
-Con
trai thứ hai họ Vương húy là Đức Xuân.
-Con
trai thứ ba họ Vương húy là Đức Hồng.
--Con
gái thứ tư họ Vương húy là Thị Đào.
-Con
gái thứ năm họ Vương húy là Thị Liễu.
Sau
khi đặt tên, thấm thoát thoi đưa, ngày qua tháng lại, năm người con đã mười hai
tuổi, cha mẹ cho đi học. Học được hai năm đã làu thông văn, truyện. Năm anh em
mười tám tuổi, chẳng may cha mẹ đều mất (Ngày 6 tháng 3).
Lại
nói, thời ấy nước ta nhà Đinh vận mạt không đương nổi gánh nặng Quốc gia, Thập
đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi, niên hiệu là Thiên Phúc, phải lo phòng giữ đất
nước.
Cũng
năm ấy, giặc Tống Xâm lược. Nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo, Quách Tiến làm tướng
chia quân làm hai đường thủy bộ đánh thẳng vào thành trì nước ta. Nhà vua thân
hành đi dẹp giặc. Qua trấn Hải Dương thuộc địa giới Dược Đậu Trang, huyện Bàng
Châu, phủ Nam Sách thì trời đã chiều. Vua cho dừng lại và đóng đại bản doanh ở
đó. Tại đây vua truyền hịch cho các bậc hiền tài ở khắp nơi về ứng tuyển.
Năm
anh em họ Vương đều vào yết kiến nhà vua. Sau thử tài vua thấy cả năm người trí
dũng khác thường, nhà vua trọng dụng. Năm anh em cùng làm tướng theo vua chống
giặc. Cả năm vào trận đều bách chiến bách thắng. Vua yêu mến phong cho ba người
anh là Đại tướng, phong cho hai em là Mẫu nghi thiên hạ.
Các
vị nhận phong lại tiếp tục theo vua đánh giặc. Ba ông và hai bà chỉnh đốn quân
ngũ chia quân thành hai đạo thủy bộ tấn công quân Tống. Giặc Tống không kháng
cự nổi, thua to, hoảng sợ bỏ thành trì mà chạy. Từ đó nước ta yên bình.
Quân
chiến thắng đuổi giặc ra khỏi bờ cõi rồi về Dược Đậu Trang. Vua cho hạ trại ăn
mừng bảy ngày(từ ngày 14 tháng 11). Hết bảy ngày vua cùng các tướng trở về kinh
đô. Năm vị tướng họ Vương xin được ở lại cho đủ năm để chịu tang cha mẹ, mãn
tang sẽ vào triều đình bái yết
Chẳng
may năm ấy cả năm vị họ Vương cùng mất. Nhân dân trong vùng lấy làm thương tiếc
và không khỏi lạ lùng. Đã làm biểu dâng lên nhà vua tâu trình về sự hệ trọng
ấy. Vua xem biểu thương xóta năm vị công thần có công với nước liền sai sứ thần
trở về dân trang tổ chức lễ phúng viếng. Và truyền cho nhân dân trong vùng lập
nên bốn miếu để thờ phụng, ban cho hai mươi bốn mẫu công điền cầy cấy để cúng
lễ. Vua sắc phong cho năm vị họ Vương Thượng đẳng phúc thần:
-Ông
thứ nhất: Thiên Bồng đại tướng quân Đại vương- Đền lập tại núi Thiên Bồng (tên
gọi Đến Cao).
-Ông
thứ hai: Dực thánh linh ứng Đại vương-Đền lập tại khu đất bằng trước làng (tên
gọi Bến Tràng).
-Ông thứ ba: Anh vũ Dũng lược Đại vương-Đền lập tại trước
trang cạnh sông (tên gọi Bến Cả).
-Bà thứ tư: Đào Hoa trinh thuận Công
chúa-Đền lập đầu trang (tên gọi Đền Cả).
-Bà thứ năm: Liễu hoa linh Công chúa-
Đền thờ cùng với Đền Cả.
Cứ mỗi năm vào 24 tháng Giêng đầu Xuân
lại làm đại lễ cả dân thờ cúng, lễ dùng hương hoa cỗ chay.
Năm Hồng Phúc Nguyên niên mùa xuân
ngày lành, tôi là Nguyễn Bỉnh, Hàn lâm các học sĩ kính soạn
Ngày 1 tháng 2 mùa xuân năm Canh Thìn
Kính sao bản chính ở Đền Cao
21/01/2015
Đỗ Đình Tuân
21/01/2015
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét