Thuyết minh
ảnh: Tổ 1 lớp Văn 3C khóa học Nguyễn Văn Trỗi (1962 – 1965)
-Hàng trước
tiên (từ trái qua phải): Nguyễn Văn Tính (Sơn Tây), Trịnh Văn Thênh (Nam Định),
Nguyễn Thị Mỹ Hòa (Học sinh miền Nam tập kết), Nguyễn Duy Dự tức Thanh Dạ (Nam
Sách,Hải Dương)
-Hàng giữa
(Từ trái qua phải): Huỳnh Thê (Cán bộ miền Nam tập kết), Phan Văn Ngân (Phú Thọ),
số 3 quên ?, Nguyễn Văn Túc (Thái Nguyên)
-Hàng sau
cùng (Từ trái qua phải): số 1 quên ?, Đỗ Kim Hồi (Tương Mai, Hà Nội), Đỗ Đình
Tuân (Chí Linh, Hải Dương), Nguyễn Văn Phượng (Kim Động, Hưng Yên)
Ngày còn là sinh viên,
chúng tôi cứ mỗi năm lại có một tháng đi lao động tập trung tại nông trường Cửu
Long trên Hòa Bình. Cuối năm 1963, chúng tôi lao động ngay tại thị trấn Lương
Sơn. Lần ấy chúng tôi tham gia xây dựng một trạm phát điện của nông trường.
Công việc của chúng tôi là rửa sỏi và rửa đá răm. Họ đổ đầy nước vào những cái
thùng phi. Chúng tôi xúc sỏi vào sảo rồi cứ hai đứa ôm một cái thùng phi mà
rửa. Rửa sạch rồi thì lại đổ ra một đống riêng. Suốt cả đợt chỉ thấy làm có một
công việc như thế. Hồi đó phố xá Lương Sơn còn lèo tèo lắm. Nhà toàn là tranh
tre nứa lá cả. Nhưng chỉ có khu nhà hành chính của nông trường bộ là ở trên phố
thôi. Còn khu tập thể của nông trường, nơi chúng tôi ở thì lại nằm ở phía dưới
đường số 6, trên một bãi đất rộng và ven một con suối chảy gần như song song
với con đường. Ấn tượng nhất với chúng tôi chỉ có cái cửa hàng bánh mỳ ở giữa
phố Lương Sơn. Bởi tối nào ở đây cũng đông đúc người mua và từ đó thấy phả ra
một mùi thơm của bánh mỳ nướng nóng rất hấp dẫn. Nhưng chúng tôi cũng chẳng có
tiền mua. Vả lại tối đến cũng rét nữa nên chúng tôi cũng ít đi chơi
phố.
Ngày ấy hình như Thanh
Dạ đã “thầm yêu” và tôi thì cũng đang “trộm nhớ”. Bởi thế mà cứ sau bữa cơm
chiều, chúng tôi thường hay sán xuống khu nhà bếp, nơi các cô nàng đang bóc
sắn, cho vào các vạc luộc chín, chuẩn bị cho bữa ăn sáng ngày hôm sau. Cái tâm
trạng của những người đang yêu luôn nặng nề nhưng cũng ấm áp lạ. Nặng nề vì
phải đè nén xuống và ấm áp nhờ những tia hy vọng luôn biết đường an ủi. Cho dù
có thể rất bâng quơ. Trong những ngày ấy Thanh Dạ đã viết bài Bên bếp lửa
gần như chuyển tải được nguyên vẹn cái tâm trạng của chúng tôi thành thơ:
Chiều nay ngồi bên bếp
lửa
Hai người yên lặng
nhìn nhau
Tim tím chiều hoa mua
nở
Rì rầm suối chảy về
đâu?
Cô gái đỏ hồng đôi má
Bập bùng ánh lửa trên
môi
Hôm nay cô làm cấp
dưỡng
Riêng ai dành củ sắn
lùi?
Vừa tình tứ mà lại vừa
ấm cúng. Cái không khí của bài thơ thật đầy chất trữ tình.
Phải đến 41 năm sau,
cũng vào một mùa đông-mùa đông của năm 2004-Trong một buổi sinh hoạt thơ của
CLB các nhà giáo yêu thơ huyện Chí Linh, tôi mới lại được nghe Thanh Dạ đọc một
bài thơ tứ tuyệt, làm tôi giật mình. Tôi giật mình vì sự lạ lẫm và hết sức kỳ
diệu của bài thơ: Bài Buổi sớm mùa cày:
Tiếng máy cày vỗ sườn
đêm sóng sánh
Đất trở mình thức dậy
gọi mùa sau
Đêm bỗng rách theo
đường cày lấp lánh
Mây bình minh thành
luống ở trên đầu.
Cái đường cày ở đây
sao lạ lùng đến thế. Nó đâu chỉ có việc cày ruộng làm “Đất trở mình thức dậy
gọi mùa sau”. Nó còn cày vào thời gian, làm rách cả đêm ra, lật đêm sang ngày
tạo ra những bình minh lấp lánh. Nó cày vào không gian lật tung cả trời lên,
làm cho “Mây bình minh thành luống ở trên đầu”. Không có những ngẫu hứng xuất
thần, những thăng hoa vụt đến, thì rất khó lòng tạo ra được những câu thơ như
thế. Đọc xong bài thơ, tôi cứ tự hỏi mình, không biết trên đời này còn có thứ
nghệ thuật nào tạo ra được vẻ đẹp cho những đường cày lấm láp như thế nữa hay
không, hay chỉ có thơ?
Gần đây, xem một bộ
phim Hàn Quốc, tự dưng tôi hình như “phải lòng” một cô nữ diễn viên. Mà cái bà
xã nhà tôi, thì vừa đáo để lại vừa nhạy cảm. Hễ cứ thấy tôi bị cái cô diễn viên
ấy “hớp hồn” là thị lại giơ nắm đấm lên “giờ giờ”, làm tôi phát hoảng. Tôi
không dám hí hửng nữa. Nhưng trong bụng thì vẫn cứ “phải lòng”. Và tôi
rất thèm được như Thanh Dạ, cứ tự do mà bày tỏ sự “phải lòng” của mình như
trường hợp bài Dịu dàng quá thể:
Em dấu nụ cười sau
chiếc khẩu trang
(Cái ánh mắt mách giùm
anh như thế)
Em dịu dàng
Dịu dàng quá thể
Khiến lòng anh
Chẳng dễ lặng yên nằm.
Đã cho anh xuất viện
rồi ư ? Em !
Sao tàn ác
Sao em tàn ác thế?
Với cử chỉ dịu dàng
Dịu dàng quá thể
Em vô tình vò xé
trái tim anh.
Anh biết tìm ai
Chữa được cho lành
Anh bối rối
Anh trở thành cáu kỉnh
Em chẳng biết đem nụ
cười
Ấn định
Cứ vô tình. Cứ phân
phát bình quân
Ra viện rồi
Anh vẫn cứ…bệnh nhân.
Một khám phá nho nhỏ
thôi. Chỉ một nét tâm lý đời thường của một chàng trai đa tình. Nhưng cách diễn
tả thì lại rất có duyên và giàu ý vị. Ý vị từ cái mở ngoặc “Cái ánh mắt mách
giùm anh như thế”. Cái ý vị nằm trong chiếc khẩu trang che miệng…Cái ý vị còn
từ cách điệp, cách láy ngữ “Em dịu dàng…dịu dàng quá thể”… Trong cái điệp ngữ
này dường như có cả tiếng kêu, tiếng reo, tiếng xuýt xoa thán phục. Cái duyên
dáng ý vị còn toát ra từ sự lệch pha không ăn ý giữa cô em thì cứ vô tình, còn
cái anh chàng kia thì lại đầy hữu ý…Nhưng phải tinh tế, rất tinh tế thì mới
diễn tả được như thế. Tôi không rõ là Thanh Dạ có phải trả giá gì cho cái bài
thơ “ăn vụng” này không? Còn tôi, tôi thuộc loại “râu quặp”, tôi chưa bao giờ
dám “biểu tình” như thế cả !
25/8/2011
Đỗ Đình Tuân
(Đăng lại ngày 28/08/2018)
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét