Kỳ 2: Những khúc hát của một thời
Năm
1953 và đầu năm 1954, không khí trong vùng tự do của huyện Chí Linh rất hào
hứng sôi nổi. Tin chiến thắng từ mặt trận Điên Biên Phủ và các địa phương
trong tỉnh cứ tới tấp truyền về. Không khí ấy như tiếp thêm lửa cho bài hát tập
thể của các lớp học sinh. Mở đầu tiết học nào cũng có hát tập thể. Những bài
hát thường hát là Kết đoàn, Kết liên lại, Nhạc tuổi xanh, Vì nhân dân quên
mình, Qua miền Tây Bắc, Hành quân xa, Tuổi hai mươi… Còn trong các “giờ vui
sống” ở trong khu tập thể giáo viên chúng tôi thường “hòa nhạc”. Hòa nhạc của
chúng tôi ngày ấy còn đơn giản lắm. Không có bè cao bè thấp, không có phối âm
phối khí…gì cả. Ngoài chiếc ghi ta phập phình cầm nhịp còn tất cả các thứ đàn cứ lên dây cho bằng độ
cao nhau, rồi đánh cùng một bài thế là “hòa nhac”. Cứ đánh được đều nhau thế là
buổi hòa nhạc đã thành công. Thực ra nó chỉ là một dạng hát đồng ca bằng đàn.Chúng
tôi thường “đồng đàn” những bài hay hát ở trên lớp. Ngoài ra còn “đồng đàn” cả
những bài nhạc múa như “Hái chè bắt bướm”, “Vui lên anh dân cày”, “Múa Sạp
Mường”, “Xòe Thái”, “Vũ khúc Nga La Tư”…Có hai bản nhạc ngoại, không lời, tôi
thấy mọi người gọi nó là bài “Sòn la sí” và bài “Ngựa chạy”. Đa số những bài
“đồng đàn” ấy đều mang tính tập thể. Chỉ duy nhất có một bài hò hẹn lứa đôi mà
vẫn hay được “đồng đàn” đó là bài “Người tình yêu”. Riêng các thày, đôi khi
trong những lúc “độc cầm” tôi cũng thấy các thày đánh mấy câu của “Con thuyền
không bến”, của “Ngày về” hoặc “Áo mùa đông”…
Khi
thày Trương Quốc Lâm từ Thái Nguyên về trường, thấy tôi đàn được, thày có dạy
riêng cho tôi bài “Quân đoàn 61” và hai thày trò thường rất hay “đồng đàn” với
nhau bài này. Nhưng tiết mục này lại không biểu diễn bao giờ cả. Nó gần như là một
tiết mục của riêng hai thày trò chơi với nhau thôi.
Cũng
vào dịp ấy “nghệ sĩ nhí” còn vinh dự được nhà trường cử đi dự một lớp học nhạc
ở trên tỉnh, đóng mãi trong Đìa Đô thuộc Lục Nam ngày nay. Vì đang thích được
học nhạc nên thằng bé hí hửng lắm. Nhưng đáng buồn là lớp học ấy lại không học
nhạc mà chỉ học múa. Cũng không học kiến
thức cơ bản gì về múa mà chỉ học mấy điệu múa cụ thể. Kết quả lớn nhất của “nghệ
sĩ nhí” trong lớp học ấy là học mót được một bài đàn “Hò thương binh”. Chính
tiết mục này, sau trở thành tiết mục tủ của tôi. Hễ có độc tấu là tôi lại “Hò thương binh”. Mãi đến những năm sau hòa bình về học ở Nội, ở
Thiên, tôi vẫn còn dùng tiết mục tủ này và luôn được hoan nghênh nhiệt
liệt.
Từ
1956 sang Hải Dương học tôi mới không chơi đàn nữa. Sau đó lại giăng mắc với
văn thơ và quên hẳn cái thú chơi đàn ngày bé. Vì thế nhiều bạn bè đồng trang lứa học với tôi thời
cấp 2, cấp 3 và các thế hệ học sinh của tôi sau này đều tuyệt nhiên không ai biết
tôi là người từng chơi đàn. Mãi đến những năm đầu thế kỷ XXI (2001-2006), các
con đi học đại học, kinh tế gia đình lại khó khăn, tôi mới phải đi làm thêm cái
việc trông coi CLB Côn Sơn. Công việc chỉ là ngồi chơi và xơi nước nhưng gò bó
và buồn tẻ. Vì thế tôi mới nghĩ đến việc cầm lại cây đàn để tự giải khuây. Tôi
luộc lại những bài cũ và thấy rất nhiều bài
chỉ còn là những khúc hát của một thời.
27/11/2013
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét